NÓI CHO SƯỚNG MIỆNG KHÔNG LÀM GÌ ĐƯỢC CHỈ VẠ MIỆNG
CHÉN THUỐC ĐẮNG CHO NGUYỄN TẤN DŨNG
Người siêu giàu ở Việt Nam:
Họ là ai?
Hạ Mai
tka23 post
Ngày 2-5-2014, Trung cộng ngang nhiên hạ đặt giàn
khoan Haiyang Shiyou-981 (HYSY-981) vào
khu vực đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Tình hình biển Đông nóng lên từng giờ,
ý chí bảo vệ chủ quyền biển đảo của người dân Việt Nam dâng ngùn ngụt. Nhân dân
khắp nơi sôi sục, mong đợi giới lãnh đạo tỏ rõ thái độ, có những bước đi
cương quyết, kịp thời, song mặt nước vẫn lặng như tờ. Sự im lặng khó hiểu từ
phía những người có trách nhiệm không chỉ làm tích tụ thêm những bực tức
của người dân, mà còn khiến những bực bội bấy lâu kìm nén có nguy cơ bùng
nổ.
1- Dàn dựng
Ngày 8-5-2014, Hội nghị Trung
ương lần thứ 9 khai mạc, TBT Nguyễn Phú Trọng – với chức trách của mình, đọc
lời mở màn Hội nghị. Cả nước nín thở trông chờ, hy vọng sẽ được nghe những
tuyên bố xứng đáng , hoặc chí ra thì cũng có những động thái nào đó về vấn
đề biển Đông. Tuy nhiên, giọng nói có phần rề rà, vẻ bình chân như vại của Tổng
Bí thư và chủ đề “lãng nhách” bàn về “xây dựng và phát triển
nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc” trở
nên phản cảm trên nền vấn đề Biển Đông đang nóng rẫy (cho dù chắc chắn, Nguyễn
Phú Trọng không động chạm đến biển Đông vì Vua tập thể” (BCT) đã
quyết định như vậy!). Những hy vọng, trông đợi nhanh chóng chuyển thành ê chề,
chán chường và tức giận, kết quả là Nguyễn Phú Trọng hứng đủ mọi rủa xả,
thóa mạ.
Trong lúc thái độ, phản ứng của
các tầng lớp nhân dân căng như dây đàn, ngày 11-5-2014, Thủ tướng Nguyễn Tấn
Dũng tới Myanmar, có bài phát biểu tại phiên họp toàn thể của các nhà lãnh đạo
ASEAN. Chưa nguôi nỗi thất vọng vì Nguyễn Phú Trọng, chẳng mấy ai trông đợi ở
bài phát biểu của Thủ tướng, song Thủ tướng đã có cú “lật cánh” ngoạn mục khi
nhắc đến các từ ngữ “biển Đông”, “ngang nhiên”, “hung hăng”, “vi phạm đặc
biệt nghiêm trọng”….Trước khung thành không có thủ môn, Thủ tướng chỉ việc
co chân và… sút!
Dù đã có một vài từ ngữ có
vẻ cương quyết, nhưng nếu phân tích kỹ toàn bài phát biểu của Thủ tướng Nguyễn
Tấn Dũng và đặt trong bối cảnh nguy cơ, hiểm họa từ giàn khoan HYSY-981,
sẽ chẳng thấy có nhiều điều đặc biệt: Giọng điệu vừa phải, lời lẽ uyển chuyển,
nhẹ nhàng, không động chạm, tránh né, không dám gọi đúng tên sự việc… Sau hơn
10 ngày im lặng, những gì mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phát biểu tại Myanmar là
chưa đủ, là điều ít nhất có thể làm. Chính kiến, thái độ của Thủ tướng là nhỏ
bé trong so sánh với những gì mà Bắc Kinh đang làm. Bất kỳ Nguyên thủ quốc gia
bình thường nào cũng có thể phát biểu mạnh mẽ, thuyết phục, cứng rắn hơn thế;
nhưng, bài phát biểu đã nhận được sự hoan nghênh nhiệt liệt – nó đã đánh trúng
tâm lý bức bối của người dân. Nó được tung hô hơn giá trị đích thực, nhất là
bởi bộ máy báo chí “định hướng XHCN” và đội quân Dư luận viên (DLV) đông đảo.
Tiếp dòng sự kiện, chiều ngày
14-5 -2014, Hội nghị Trung ương lần thứ 9 bế mạc. Dù đã một lần thất vọng,
người dân vẫn mong manh trông đợi những thông điệp mới từ Tổng Bí thư, nhất là
khi đã có một trong bốn tứ trụ khai bước, mở đường. Nhưng, như Trần Hữu Dũng
đúc kết thì “diễn văn bế mạc của Nguyễn Phú Trọng có 7 đề tài chính. Hai đề tài
đầu tiên (và dài nhất) là: 1- Bản sắc dân tộc của văn hóa Việt Nam; 2- Tích cực
đấu tranh với những biểu hiện lai căng. Đề tài thứ 4 là ngắn nhất, nói
về quốc phòng, an ninh, đối ngoại… Không có bất cứ một chữ “Trung
Quốc” nào và chỉ có duy nhất một chữ “biển Đông”
(còn từ “văn hóa” thì được nói đến hơn 30 lần)”.
Một lần nữa người dân Việt Nam lại
ngã ngửa! “Ấn tượng” Myanmar, vì thế, càng khắc đậm dấu ấn. Mưa đá, bão đá tiếp
tục trút ào ào về phía Nguyễn Phú Trọng, nhất là khi trước đó (ngày 13-5-2014),
thông tin về việc người anh “bốn tốt” khước từ gặp gỡ Nguyễn Phú Trọng đã lan
tràn trên thế giới mạng (dù việc đề nghị gặp Tập Cận Bình, coi đó là một sự
kiện để giải quyết vấn đề cũng là lẽ thường).
Khi Nguyễn Phú Trọng (cùng với
một loạt nhân vật khác) đã “chết lâm sàng” và mười ngày sau sự kiện Myanmar –
thời gian vừa đủ để “ấn tượng Myanmar” bắt đầu nhàn nhạt (trong khi biển Đông
ngày càng căng thẳng); đồng thời, sau khi đã thỏa thuê ném đá, nhân dân cần
tiếp một cú chích “vitamin liều cao”, thì Manila và Diễn
đàn kinh tế Thế giới về Đông Á 2014 là một cơ hội thích hợp.
Quả thật, Thủ tướng đã làm một động tác kích đẩy nhẹ nhàng chỉ với cụm từ “hữu
nghị viển vông” và đã đạt hiệu suất ngoài mong đợi, trong phút
chốc “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, trở thành “anh hùng dân tộc” – thần tượng của
một đất nước luôn khát khao thần tượng. Biển Đông đã nóng, những lời ca tụng
Thủ tướng bằng những mỹ từ chói sáng nhất, vang vọng nhất, ngời ngợi nhất… còn
nóng hơn gấp ngàn lần: “Phát biểu của Thủ tướng hội tụ khí phách Việt Nam”;
“Thủ tướng nói lời non sông đất nước”; “phát ngôn của Thủ tướng mang sức hiệu
triệu”; “tiếng nói dũng cảm của ông Thủ tướng cự tuyệt thứ “hòa bình hữu
nghị viển vông” có giá trị như một lời hô thoát Hán”…
Chỉ nghe Thủ tướng nói, chưa cần
xem Thủ tướng làm, một bộ phận đông đảo người Việt, trong đó có cả tầng lớp
tinh hoa, đã vội vàng “dịch” lời Thủ tướng thành bốn cơ hội/khả năng sau:
1- Thoát Hán;
2- Tổ quốc trên hết!;
3- “Xoay trục” sang phương Tây;
4- Dân chủ.
Bốn cơ hội “tự phiên” đã thắp lên niềm tin, hy vọng về một Việt
Nam chuẩn bị cất cánh và thậm chí đã nghĩ đến cơ hội được bày tỏ lòng yêu nước,
khi chính giới lãnh đạo khẩn thiết “kêu gọi” nhân dân biểu tình…. Và ngần ấy cơ
hội cũng thừa để ve vuốt tinh thần, khát khao, ý chí của người Việt trong nhiều
ngày qua – điều mà Thủ tướng đã nhếch môi cười mỉm biết trước. Quả thật, để
“ghi điểm”, Thủ tướng không tốn nhiều công sức. Chỉ bằng một con tính lớp một và vài ba thao tác kỹ thuật đơn giản,
Thủ tướng đã kịp điều chỉnh, định hướng dư luận theo cách có lợi nhất cho các
mục tiêu, tính toán của mình.
2- Đằng sau dòng sự kiện
Song, niềm tin và hy vọng chỉ có
thể trở thành hiện thực khi được xây trên nền tảng vững chắc là tính khả thi và
mong muốn thực thi của chính trị gia, chứ không phải là các thủ thuật
hoặc tiểu xảo chính trị. Xếp đặt, sàng lọc, lắng đọng và móc nối các
sự kiện, phần chìm của tảng băng dần lộ diện:
Ngày 5-5-2014, vài ngày sau khi
HYSY-981 được ông bạn “16 chữ vàng” đặt phịch vào sân nhà
hàng xóm, Blogger AnhBaSam Nguyễn Hữu Vinh – chủ một trang điểm thông tin với
tinh thần nhà báo phải nói đúng sự thật bị bắt khẩn cấp. Chủ
trang mạng “từ khi khởi đầu đến nay đều ưu tiên cho những thông tin về Trung –
Việt, cảnh báo và phản đối những hành động xâm phạm chủ quyền Việt Nam của
Trung cộng ” [1]; đồng thời, dám đăng những bài
điểm trúng huyệt đạo [2] bị “tống kho” đã ngầm phản
ánh “quyết tâm” chống Trung cộng của Chính phủ do Thủ tướng đứng đầu
và ý định “đốn phạt” những người có thông tin, có khả năng bình luận sắc sảo,
“đi guốc vào trong bụng”.
Ngày 11-5-2014 (cũng là ngày Thủ
tướng tới Myanmar và có bài phát biểu trông đợi) – lần đầu tiên người dân Việt
Nam được “bật đèn xanh” biểu tình thể hiện lòng yêu nước (dù có hai loại “biểu tình nhân dân” và “biểu tình quốc doanh”).
Hai sự việc đặt cạnh nhau, khiến người Việt phần nào quên đi AnhBaSam, bắt đầu
tin tưởng ở sự thay đổi của Chính phủ (người Việt Nam vốn cả tin, nhẹ dạ).
Tuy nhiên, sự kiện bạo loạn Bình
Dương (12-5), Vũng Áng, Hà Tĩnh (14-5)… đã mang đến những dự cảm chẳng lành.
Phóng sự “Đi giữa dòng bạo động” của nhạc sĩ Tuấn Khanh đã giúp
giải đáp nhiều nghi vấn. Quả thật, sự lặng thinh và vắng mặt
của các lực lượng an ninh theo kiểu thả nổi đám đông, cũng như cách thức tổ
chức, kích động biểu tình rất chuyên nghiệp đã chỉ báo về một âm mưu, kế hoạch
được sắp đặt tỉ mỉ, tính toán chu đáo “từ trong ruột”. Việc đồn đoán “công an
bất ngờ, trở tay không kịp” để bạo động xảy ra đã bị đánh đổ, bị phủ định hoàn
toàn bởi “lịch sử hào hùng, vẻ vang” của lực lượng công an từng phá những vụ án
hình sự nổi tiếng, từng đánh sập, bóp nghẹt từ trong trứng nước mọi “âm mưu bạo
loạn” dù mong manh nhất.
Thêm vào đó, sau nhiều ngày điều
tra, bộ máy an ninh tinh nhuệ, khổng lồ, nghiệp vụ cứng đã kết luận Việt Tân là
thủ phạm – một kết luận ngô nghê, non nớt, vụng về đối lập với “tài năng” phá
án và cùng với kết quả điều tra người cầm đầu gây rối chủ yếu là các băng giang
hồ, Bộ Công an đã tự tố cáo. Tư duy “lùn” của bộ máy an ninh
đứng dưới “bóng mát” chiếc lọng vàng của Thủ tướng đã không chệch nguyên tắc
“chủ nào, tớ ấy” khi phù phép, biến Việt Tân thành “vật tế thần”.
Tuy nhiên, nếu chỉ đổ tội cho
Việt Tân thôi thì có vẻ hổng hểnh. Sự đập phá có lựa chọn, mang tính chủ đích
“chỉ có 2 doanh nghiệp của Trung cộng bị đốt cháy” trong số “700
doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài trực tiếp bị đe dọa và “trên 460 doanh nghiệp
bị đập phá” đã kịp thời lấp đầy lỗ hổng, bẻ quặt một bộ phận dư luận tin rằng
có bàn tay của Trung Nam Hải – đó cũng là cách đẩy nghi vấn sang phe
Cung vua.
Ngày 17-5-2014 (một ngày trước
khi cuộc xuống đường toàn dân được dự tính ), các dòng tin nhắn “Thủ
tướng chỉ thị…”; “Thủ tướng yêu cầu…”; “Thủ
tướng đề nghị…”, như cơn lũ ập vào hơn 120 triệu thuê bao di động. Việc
các nhà mạng (không hiểu vô tình hay hữu ý) “thi nhau sỉ nhục Thủ tướng” (như
Huỳnh Ngọc Chênh giễu cợt) đã chính thức phát đi tín hiệu đau thương cho ngày
toàn dân xuống đường. Thực vậy, ngày 18-5-2014, câu chuyện biểu tình trở về
vạch xuất phát ban đầu. Dưới sự chỉ đạo “xuất sắc” của Thủ tướng, nhân
danh tái lập trật tự, an toàn xã hội, người biểu tình bị sách nhiều, bị giam
giữ, bị lôi, kéo, khênh vứt lên xe, thậm chí bị đánh đập…
Sau ngày 18-5 đến thời điểm hiện
tại, không khí biểu tình xẹp lép. Bình Dương, Vũng Áng đã hoàn
thành xuất sắc sứ mệnh lịch sử! Đến hết năm 2015 (không loại trừ còn lâu hơn
nữa), Luật Biểu tình vẫn cứ là giấc mơ của nhân dân Việt
Nam.Xin mời Trung cộng tiếp tục nghênh ngang xâm phạm chủ quyền,
lãnh thổ Việt Nam, nhân dân Việt Nam đã bị dán băng keo vào mồm theo một cách
hết sức “hợp pháp”. Cuối cùng, người dân Việt Nam không chỉ mất sạch
cơ hội bày tỏ lòng yêu nước, phải bịt mồm, bịt chính kiến, mà việc bắt bớ và
theo dõi “bọn phản động” có tư tưởng dân chủ, tư tưởng chống Trung Quốc cũng
trở nên dễ dàng hơn.
Sự kiện ngày 18-5 đẩy sự bức bối
vốn có lên một mức mới, nhưng chỉ ba ngày sau, những bực tức có
chiều hướng gia tốc đã bị đè bẹp một cách đĩnh đạc, thuyết phục bởi cụm từ “hữu
nghị viển vông” (21-5-2014). Tiếp nối những lời phát biểu được mệnh
danh là “mang hồn thiêng sông núi”, Thủ tướng “bồi” thêm vào niềm hy vọng của
người Việt bằng một “chưởng” kha khá: “Việt Nam chúng tôi đang cân nhắc
các phương án để bảo vệ mình, kể cả phương án đấu tranh pháp lý, theo luật pháp
quốc tế”[3].
Sau một loạt những mánh lới chính
trị, đã đến thời điểm lên tiếng của các DLV. Hàng loạt bài báo chỉ trích phe
Cung vua hèn kém, cam tâm nô lệ, bán nước cho Tàu, đứng sau các vụ bạo loạn…và
tung hô “thần tượng mới”, gọi đó là “hiểm họa đối với Trung cộng trước
mắt và lâu dài”…đã dẫn dắt dư luận theo hướng Tuyên bố “hữu
nghị viển vông” định sẵn.
Trong hành động “hậu diễn văn”:
Thứ nhất, Thủ tướng lập
tức gửi thông điệp trấn an đối phương:
1- “Việt Nam không tham gia bất cứ liên minh quân sự nào
để chống lại một quốc gia khác”[4] (Thủ tướng thật khéo “đánh lận con đen”- câu hỏi không hề
nói đến “liên minh
quân sự để chống lại một quốc gia khác”);
2- “Việt Nam không bao giờ đơn phương sử dụng biện pháp quân sự,
không bao giờ khơi mào một cuộc đối đầu quân sự, trừ khi bị bắt buộc phải tự vệ”[5].
Tuyên bố của Thủ tướng có thể
được hiểu như sau:
1- Trung cộng hoàn toàn yên tâm, Việt Nam sẽ
không “xoay trục”, Mỹ và Nhật có muốn cũng không cản được Trung cộng
ở biển Đông;
2- Trung cộng bình tĩnh đặt giàn khoan, cứ “nuốt” dần
biển Đông, miễn là không nổ súng.
Thứ hai, đối với việc
kiện Trung cộng , Thủ tướng tìm kế hoãn binh: “Về giải pháp đấu tranh pháp lý
(…), chúng ta đã chuẩn bị hàng chục năm nay, còn thời điểm nào hợp lý thì Bộ
Chính trị sẽ quyết định”[6]. Tóm lại, không kiện là
do Bộ Chính trị đấy chứ, không phải do tớ – điều Thủ tướng muốn nói là
như vậy. Đổ thừa cho Bộ Chính trị cũng có nghĩa là phe Cung vua hứng tiếp mũi
dùi dư luận.
Vài ngày sau, Đại tướng Phùng
Quang Thanh nhũn nhặn “phun châu, nhả ngọc”tại Hội nghị Shangri La
(31-5-2014) khiến người dân Việt Nam phừng phừng nổi giận, cho dù
những gì rơi ra từ miệng Đại tướng đều là ý tứ Bộ Chính trị (trong đó có Thủ
tướng), đã được “Vua tập thể” nâng lên, đặt xuống
đến bấy bớt. Phát biểu của Phùng Đại tướng không chỉ trấn an các “đồng chí Bốn
tốt”, mà còn làm bệ phóng cho Tuyên bố “hữu nghị viển vông” bay cao, bay xa.
Nằm trong guồng vận hành của thể chế, khoác
áo quan võ, tơi tả trước búa rừu dư luận, Phùng Quang Thanh buộc phải trở thành
con tốt thí trên bàn cờ của Thủ tướng.
Như vậy, ngoài
những lời tuyên bố, cho đến nay, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chẳng hề có bất cứ
hành động thực tế mạnh mẽ nào trong khi Trung cộng ngày càng lộng
hành trên biển Ðông. Hơn nữa, tuyên bố hay trả lời phỏng vấn cho dù đanh thép
và khí phách đến đâu cũng không thể thay thế Tuyên bố chính thức của Chính phủ
gửi đến đối phương tuyên ngôn về quan điểm của một Nhà nước có chủ quyền –
điều Thủ tướng có thể làm, song vẫn chưa làm và sẽ không làm (nên nhớ, hành
động của Trung cộng , cũng như thái độ, sự ủng hộ hoặc quay lưng của quốc tế
phụ thuộc vào phản ứng thực tế của Việt
Nam!).
Ngay cả đến việc đúng phép ngoại giao và thông lệ quốc tế
là triệu Đại sứ Trung cộng đến để tỏ thái độ, Chính phủ của Thủ
tướng cũng không dám làm (trong khi báo chí, ti vi chỉ vừa đưa tin hàng hóa
Trung cộng độc hại, kém chất lượng, Đại sứ Việt Nam đã lập tức bị
triệu hồi vào lúc nửa đêm để nghe huấn thị[7]). Việc Thủ tướng “đùn” cho Phó Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc trả
lời chất vấn về biển Đông chính là dấu chấm cuối cùng trong Tuyên bố đậm
tính viển vông.
3- Khi đã là bản chất…
Đến đây, bản thân dòng sự kiện đã
là sự trả lời đầy đủ nhất cho câu hỏi: Thủ tướng có thực sự không màng “hữu
nghị viển vông”? Tuy nhiên, sau những “phát biểu xứng tầm nguyên thủ quốc gia”,
“hợp ý nguyện lòng dân”, “gây xúc động hàng triệu con tim Việt”… của Thủ tướng
trước họa phương Bắc, rất có thể có một câu hỏi vẫn được đặt ra: Phải
chăng, Thủ tướng đã thức tỉnh tinh thần dân tộc?
Nhưng,tinh thần dân tộc chỉ có
thể thức dậy nếu nó có, dẫu chỉ là đôi chút. Người ta không thể tin
Thủ tướng có tinh thần dân tộc, bởi lẽ, một trong những căn cứ tối thiểu, căn
bản nhất là dù ở bất cứ vị trí nào (chưa nói đến vị trí Thủ tướng) cũng phải có
ý thức làm lợi cho dân, cho nước, hoặc chí ít là không làm hại, “làm nghèo đất
nước, làm khổ nhân dân” [8]. Còn Thủ tướng? Những “phát ngôn
đanh thép” (?!) thời gian qua thực chất là những tiểu xảo chính trị. Thủ
tướng luôn biết chọn vấn đề, thời điểm “ra đòn”, tung hỏa mù, làm nhiễu… để gây
uy tín, “ghi điểm”, nhằm củng cố địa vị hoặc bành trướng ảnh hưởng.
Còn nhớ, ngồi vào ngôi vị Thủ
tướng nhiệm kỳ đầu, biết rằng tham nhũng đang trở thành bức bối xã hội, Nguyễn
Tấn Dũng đã nắm lấy điểm yếu huyệt, lập tức tuyên bố trong Diễn
văn nhậm chức: “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn và đẩy lùi bằng
được tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí”[9]. Thực tế thì gần hết hai nhiệm kỳ
Thủ tướng, tình hình tham nhũng trầm trọng thêm với những biểu hiện ngày càng
tinh vi, phức tạp. Năm 2013, theo chỉ số tham nhũng, Việt Nam xếp thứ 116/176
quốc gia được khảo sát. Các vụ đại án tham nhũng đều có bóng dáng của quan chức
cấp cao, các nhóm lợi ích đặc quyền, nhóm thân hữu. Tham
nhũng tiền bạc, đất đai, tham nhũng quyền lực, chính sách là hiện tượng phổ
biến, thường ngày. Những tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước làm ăn lỗ với những
con số “khủng” là kết quả xâu xé của tham nhũng[10]. Làn sóng “tái cấu trúc” hệ
thống Ngân hàng (Eximbank, Techcombank, Phương Nam, Bản Việt, Vietinbank, BIDV,
Bắc Á…) hoặc để thôn tính, hoặc để trốn nợ xấu cũng là dưới bàn tay “phù phép”
của các nhóm thân hữu.
Tháng 2-2010, khi vụ việc Đoàn
Văn Vươn đang gây nên một làn sóng phản đối lan rộng, bức bối vì thiếu dân chủ
dâng cao, Thủ tướng ra tay đúng lúc, kết luận một cách “minh quân”: Chính
quyền Tiên Lãng ngụy biện, sai lầm, vô cảm… “quanh co khi phải đối diện với sự
thật”. Thế là Thủ tướng trở thành “người hùng”, người dân Tiên Lãng, người
dân cả nước đặt hy vọng, tin tưởng vào Thủ tướng”. Nhưng cuối cùng thì…Vươn
vẫn hoàn Vươn – người dân vào tù, sai nha thăng Tướng!
Năm 2013, biển Đông tiếp tục nóng
lên trước những hung hăng gia tăng mạnh mẽ của Trung cộng [11]; đồng thời, sự kiện 17-2 đang
đến gần, lòng dân sôi sục, Thủ tướng – “kịch nghệ” mở màn vở diễn mới. Ngày
30-12-2013, trong cuộc làm việc với Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Thủ tướng
tuyên bố hùng hồn: Hiện Bộ Ngoại giao Việt Nam đang lên kế hoạch tưởng niệm 40
năm sự kiện Trung cộng đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa (1-1974) và 35
năm sự kiện Chiến tranh bảo vệ biên giới phía Bắc (2-1979). Nhân dân vui mừng ,
báo chí hào hứng đợi chờ…. Thế rồi, mọi việc lại rơi tõm vào thinh không và khi
dịp kỷ niệm đã qua đi, ngày 19-2-2014, Thủ tướng vớt vát: “Đảng, Nhà nước không
bao giờ quên cuộc Chiến tranh biên giới phía Bắc, cũng không bao giờ quên công
lao của những đồng chí, đồng bào mình chiến đấu hy sinh để giành thắng lợi
trong cuộc chiến chống xâm lược ngày 17-2-1979”[12]. Hãy xem Thủ tướng giải thích về
cái sự “không quên” và “quan tâm”: “Tất cả chiến sĩ hy sinh đều nằm ở nghĩa
trang, được nhang khói”[13] (?!).
Đầu năm 2014, khi khao khát dân chủ
của người dân trở nên thường trực, cấp thiết như cơm ăn, nước uống, trong một
động thái lừa mị khác, Thủ tướng lập tức vứt ra cái “phao cứu sinh” – Thông
điệp đầu năm với những từ dễ gây hứng khởi: Đề cao hai
giá trị “song sinh” của thời đại là “dân chủ” và “pháp quyền” trong xây dựng
thể chế chính trị hiện đại. Dù không nhiều tin tưởng, nhưng nhân dân vẫn mong
đợi những chuyển dịch của nền chính trị về phía dân chủ với nền pháp trị nghiêm
minh. Song, một lần nữa, Thủ tướng vẫn tiếp tục đường ray mòn cũ: Phát
biểu chỉ để gây ấn tượng, phát biểu rồi để đó và làm trái ngược.
Cái sự “phát biểu lấy được”,
“phát biểu để đó” và “làm ngược lại” của Thủ tướng được phản ánh bằng kết quả
trên mọi lĩnh vực đời sống xã hội Việt Nam từ khi Thủ tướng nhậm chức đến nay:
Về chính
trị, đây là thời kỳ tự do ngôn luận bị xiết chặt nhất trong các
đời Thủ tướng. Trong hai nhiệm kỳ tại vị, Thủ tướng đã ký hàng loạt Nghị định,
Quyết định, Công văn[14]… giáng mạnh vào quyền tự do ngôn
luận, đàn áp khốc liệt những người “dám” phản biện, chất vấn hoạt động, chủ
trương, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam.
Dưới sự chỉ đạo của Thủ tướng,
1.000 website bị tấn công trong năm 2009 (tăng lên gấp 10 lần so với năm
2008[15]); 300 trang web và blog “không
phù hợp” đã bị đánh sập năm 2010[16]. Mặc dù Việt Nam trúng cử với số
phiếu cao vào Hội đồng Nhân quyền nhiệm kỳ 2014-2016, nhưng năm 2013, tình
hình nhân quyền ở Việt Nam lại “xấu đi nghiêm trọng”, một chiến dịch đàn áp
khắc nghiệt đối với các ký giả, blogger được tăng cường. Việt Nam đứng thứ năm
trong danh sách top 10 quốc gia cầm tù ký giả tệ hại nhất trên thế giới, là nhà
tù lớn thứ hai ở châu Á sau Trung Quốc[17]. Thủ tướng đã “thành công” đưa
Việt Nam vào trong danh sách Kẻ thù của mạng Internet, xếp
ở vị trí thứ 174/180 nước trong bảng danh sách tự do báo chí[18].
Dưới “tài” chấp chính của Thủ
tướng, nông dân bị cưỡng chế, đàn áp, bị thu hồi đất; đặc biệt, đằng sau nhiều
vụ cướp đất có bàn tay dính lứu của những nhóm đặc quyền dưới ô dù của Thủ
tướng với danh sách tên đất, tên làng dài theo thời gian: Văn Giang, Dương Nội,
Bắc Giang, Mễ Trì, Mỹ Đức, Bắc Sơn (Thạch Hà, Hà Tĩnh), Vũng Áng, Đắc Nông,
Ninh Thuận…. Về tự do tôn giáo, Việt Nam là “nước
vi phạm quyền tự do tôn giáo tồi tệ nhất trên thế giới”[19].
Về tình hình nhân quyền Việt Nam,
đại diện HRW John Sifton nhận xét: “Một chính quyền tàn ác và đàn
áp có hệ thống các quyền tự do biểu đạt, tự do lập hội và tập
hợp hòa bình, trấn áp những người dám thách thức chính quyền hay
dám kêu gọi dân chủ”[20]. John Sifton cảnh báo: Đừng kỳ
vọng “việc đưa ra đối thoại chiến lược quân sự và đàm phán tự do
thương mại với Việt Nam có thể khuyến khích đất nước này thay đổi”[21]. Ông nhấn mạnh: “Nhà
cầm quyền Việt Nam không hề thả lỏng nắm đấm của họ”[22].
Về kinh
tế, dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng, nền kinh tế vĩ mô của Việt
Nam hết sức bất ổn, chứa đựng nguy cơ rủi ro, suy thoái; tăng trưởng GDP giảm
mạnh (năm 2007: 8,46%[23], năm 2011: 5,89%[24]; 2013: 5,4%[25]). Nợ công của Việt Nam đã ở mức trên
81,885 tỷ USD, bình quân nợ công theo đầu người là 905,18USD, chiếm 47,7% GDP,
tăng 10,9% so với năm 2013 (tính đến ngày 13-6-2014)[26]. Việt Nam là một trong 20 nước
có khả năng vỡ nợ lớn nhất trên thế giới[27], người dân Việt Nam có gánh nặng
thuế và chi phí cao bậc nhất khu vực[28], tỷ lệ người lao động thu nhập
thấp (dưới 2 đôla/ngày) chiếm 18,2% dân số/năm 2011 (16,1 triệu người/)[29]. Mọi yếu kém trên đây của nền
kinh tế đã được Thủ tướng thừa nhận, nhận trách nhiệm và xin lỗi trong kỳ họp
thứ tư Quốc hội khóa XIII (10-2012)[30].
Về văn
hoá- xã hội, xã hội Việt Nam ngột ngạt, tù túng, bế tắc, các
giá trị đảo lộn, văn hoá – giáo dục tụt dốc, đạo đức suy đồi, bệnh hình thức,
thành tích và giả dối tràn lan, len lách trong mọi ngóc ngách xã hội. Phần lớn
lớp trẻ bị chủ nghĩa vật chất chế ngự, giành giật, xâu xé quyền lợi, chìm nghỉm
trong ham muốn quyền lực, vùng vẫy trong bãi sình lầy của “văn hóa đấm đá”. Cơ
chế tuyển dụng, sử dụng cán bộ không minh bạch hình thành nên một lớp “thái tử
đỏ”, “thế tử Đảng” bất tài, vô dụng, tham lam, “ăn trên ngồi chốc”, thụ hưởng
các đặc quyền, đặc lợi.
Tóm lại, Chính phủ của Thủ tướng
đã hoàn thành “xuất sắc” nhiệm vụ đàn áp con người về mặt đạo đức, ý thức chính
trị, giết dần phẩm giá và nô dịch tư tưởng, dung túng cho cái phi nhân, khiến
người dân hoặc thờ ơ, phó thác, bàng quan, vô cảm trước vận mệnh, tương lai đất
nước, hoặc mắc “bệnh sợ hãi chính trị” mãn tính, triền miên.
Về quan
hệ với Trung cộng , dưới hai nhiệm kỳ lãnh đạo của Thủ
tướng, Việt Nam lún sâuvào quỹ đạo của người láng giềng phương Bắc:
– Thứ
nhất, chống Trung cộng xâm lược là chống
Chính phủ
Những lời nói, bài viết, quan
điểm về Trung cộng gây hấn, về chủ quyền biển đảo Việt Nam, về đòi
lại Hoàng Sa, Trường Sa… đều bị cấm đoán, đều bị quy là tội phạm chính trị.
Mọi hành vi, thái độ lên án Trung cộng
đối với Chiến tranh biên giới 1979, cắt cáp tàu Việt Nam trên biển, xâm
hại ngư dân Việt Nam…. bị cấm kỵ, bị theo dõi, rình rập, dọa nạt, quy là phản
động… Chính phủ của Thủ tướng ngăn cấm, bắt bớ những người yêu nước biểu tình
phản đối Trung cộng … Đó là những hành động tiếp tay cho Trung cộng , chà đạp
lên lợi ích quốc gia, dân tộc. Chống Trung cộng là chống Chính phủ –
như thế, Chính phủ đã đồng nhất mình với Trung cộng .
– Thứ
hai, kinh tế lệ thuộc vào Trung cọng
Trung cộng là thị
trường nhập siêu lớn nhất của Việt Nam, tỷ lệ nhập siêu tăng mạnh
qua từng năm: 4,4 tỉ năm 2006; 11,5 tỉ năm 2009; 12,7 tỉ USD năm 2011; 16,4 tỉ
USD năm 2012; và 23,7 tỉ USD năm 2013[31]. Phân bón, thuốc bảo vệ thực vật
nhập khẩu từ Trung cộng chiếm khoảng 50% tổng lượng nhập khẩu của
Việt Nam; đồng thời, 60-70% diện tích lúa nông nghiệp gieo trồng giống lúa lai
Trung cộng[32]. Với việc nhập khẩu tràn lan,
hàng kém chất lượng, chứa chất độc hại tràn ngập đất nước, đồng Nhân dân tệ
khuynh đảo thị trường tài chính Việt Nam.
Trung cộng trúng thầu tới
90% các công trình điện, khai khoáng, dầu khí, luyện kim, hóa chất… của các dự
án kinh tế Việt Nam trọng điểm, hoặc dự án thượng nguồn, liên quan mật thiết
tới tài nguyên quốc gia và an ninh năng lượng. Các chủ đầu tư đều là trụ cột
kinh tế như Tập đoàn Than – Khoáng sản, Tập đoàn Dầu khí, Tập đoàn Điện lực,
Tổng công ty Thép, Tổng công ty Hóa chất[33]….
- Thứ ba, an ninh –
quốc phòng bị đe dọa
Với 90% các công trình trúng
thầu, tại các địa bàn xung yếu về quốc phòng – an ninh (Quảng Ninh, Vũng Áng,
Cửa Việt, Tây Nguyên…), người lao động Trung cộng sang Việt Nam lập
làng, thâm nhập sâu, thậm chí lấy vợ, sinh con, đồng hóa dân tộc.
Đến năm 2013, các công ty Trung cộng
được cấp 19 dự án trồng rừng ở 18 tỉnh với diện tích trên 398.374ha[34] – đây đều là các dự án liên
quan tới rừng phòng hộ, rừng đầu nguồn hoặc ở những vị trí, khu vực trọng yếu về
quốc phòng, an ninh, nơi có nhiều khoáng sản và kim loại quý[35].
Hiệp định vận tải đường bộ Việt
Nam – Trung cộng sửa đổi ngày 11-10-2011 đã
mở rộng phạm vi di chuyển, hoạt động các phương tiện vận tải giữa hai nước, cho
phép phương tiện vận tải Trung cộng qua lại 7 cặp cửa khẩu, hoạt
động trên 26 tuyến vận tải hành khách và hàng hóa (gồm 17 tuyến giáp biên giới
và 9 tuyến vào sâu nội địa)[36]. Từ tháng 8-2012, các tuyến lần
lượt được khai thông, có điều, mang tiếng là vận tải hai chiều, song trên thực
tế, do Trung cộng đưa ra quá nhiều quy định khắt khe, nên các doanh
nghiệp Việt Nam đành “bó tay”. Cuối cùng, chỉ có các doanh nghiệp Trung cộng
vận tải được hành khách, hàng hóa vào sâu trong lãnh thổ của Việt Nam,
biến tuyến vận tải hai chiều thành tuyến một chiều.
Tựu chung lại, mới chỉ điểm
qua vài nét khái quát, viện dẫn vài ba con số đã thấy bức tranh chính trị, kinh
tế, an ninh quốc phòng Việt Nam hiện tại thật đáng lo ngại, ở mức nguy hiểm. Nó
đồng thời cũng cho phép đặt câu hỏi nghi ngờ về các mối liên hệ chặt chẽ của
Chính phủ với Trung cộng . Và quả thật, tình “hữu nghị” mà Thủ tướng nói đến
thực không hề “viển vông”.
4-Thực chất đằng sau những tuyên
bố…
Đối với đại bộ phận quan chức cấp
cao Việt Nam hiện nay, nhất là những quan chức đảm nhiệm vị trí quan trọng,
then chốt trong bộ máy Đảng, Nhà nước, mục đích và nhu cầu cấp thiết nhất là
kéo dài thời gian tại vị, hoặc nếu không thể kéo dài, thì phải bảo đảm “hạ
cánh an toàn”.
Kéo dài thời gian tại vị cũng
đồng nghĩa với việc làm phình to thêm khối tài sản cá nhân kếch sù bằng nhiều
con đường bất minh khác nhau; đồng thời, tranh thủ thời cơ, gài con,
gài cháu, sắp xếp thân tộc vào những vị trí béo bở.
“Hạ cánh an toàn” là sau một thời
gian trục lợi bằng quyền lực, rời khỏi chính trường, khối tài sản to lớn
phải được bảo toàn và khi không còn chức quyền theo nghĩa chính thống, thì vẫn
có thể đứng vào vị trí “cố vấn”- “Thái Thượng Hoàng”.
Trên hai điểm quy chiếu nói trên,
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng là một hiện thân đầy đủ nhất và câu chuyện “hữu nghị
viển vông” cũng nằm trong toan tính ấy, khi thời điểm Đại hội XII Đảng CSVN
đang đến gần.
Nhìn tổng thể chính trường Việt
Nam hiện nay có hai phe phái chính trị, thường được gọi dưới cái tên “Cung Vua” – “Phủ Chúa”. Hội nghị
Trung ương 6 (10-2012) được coi là trận dàn quân đấu đá chính trị trong Đảng
CSVN căng thẳng, quyết liệt và nổi bật nhất thời kỳ đổi mới. Kết cục là
phe Cung Vua tuy giữ thế thượng phong, nhưng đến phút cuối Phủ Chúa thoát hiểm
ngoạn mục. Sau cú suýt đại bại trong gang tấc, Phủ Chúa chẳng những không
yếu đi, mà ngày càng mạnh lên, tuy nhiên, để giành phần thắng tuyệt đối tại Đại
hội XII, vẫn rất cần hạ bệ, làm mất uy tín phe Cung Vua. Bên cạnh đó, mỗi bước
đi chính trị, không thể không tính đến phản ứng của nhân dân và quốc tế. Đúng
lúc, trùng hợp, giàn khoan HYSY-981 là một cơ may thích hợp.
Với ngần ấy toan tính, chi li
trong hành động, trên thực tế, Thủ tướng đã thành công: TBT Nguyễn Phú Trọng,
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang bạc nhược, hoàn toàn mất điểm và rating của Thủ
tướng tăng cao bất ngờ.
Không chỉ có vậy, giàn khoan HYSY-981
và “tinh thần dân tộc” của Thủ tướng đã khiến những bức xúc, đè nén về dân
quyền tạm nguôi lắng. Khi cả nước đang mê trong giấc mơ “thoát Hán”, thì những
người dân mất đất, những blogger, những nhà hoạt động dân chủ bị giam
cầm….dường như cô đơn hơn với nỗi đau của mình.
Cuối cùng, một kết cục nhìn thấy
trước:
1-Ngày 15-8, tới đây, Trung cộng
rút trước mùa bão năm như đã định, Việt Nam và Trung cộng cùng tuyên
bố thắng lợi.
2- Năm 2016, tại Đại hội XII, một
tam giác quyền lực mạnh nhất mọi triều đại được hình thành: TBT Nguyễn Tấn Dũng – Thủ tướng Hoàng Trung Hải – Bộ
trưởng Bộ Quốc phòng Nguyễn Chí Vịnh (hoặc nếu Nguyễn Tấn Dũng
không trở thành TBT, thì với hai “quả đấm sắt” Hoàng Trung Hải, Nguyễn Chí
Vịnh, Thủ tướng nghiễm nhiên ở ngôi “Thái Thượng Hoàng” buông rèm cùng nhiếp
chính).
5- Vĩ
thanh
Hơn một tháng rưỡi trôi qua kể từ
ngày Bắc Kinh đưa giàn khoan vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Cọ xát và
va đập phũ phàng với hiện thực khắc nghiệt, đa phần người Việt đã qua cơn ảo
vọng “thoát Trung”, “xoay trục”.
Những diễn biến xung quanh giàn
khoan HYSY-981 cho thấy: Trung cộng đang làm chủ bàn
cờ, còn bộ máy lãnh đạo cấp cao Việt Nam (cả Cung vua và Phủ Chúa) thì hèn kém,
lệ thuộc, quỵ lụy, đặt lợi ích phe nhóm lên trên lợi ích dân tộc, hi sinh thể
diện quốc gia. Cả một bộ máy quyền lực không có bất kỳ một nhân vật nào xứng
tầm thủ lĩnh. Tuy nhiên, điều đó là hợp lý, vì muốn “thoát Trung”, thì phải có
dân chủ, mà dân chủ thì đối lập với độc tài – liệu có lãnh đạo nào vì dân tộc,
có đủ can đảm dẹp lợi ích cá nhân, phe nhóm, bỏ qua những đặc quyền, đặc lợi
khổng lồ thụ hưởng từ thể chế? Câu trả lời đã có sẵn.
Trong cuộc chạy đua quyền lực,
Thủ tướng có thể vượt vũ môn; tuy nhiên, nếu tiếp tục cai trị đất nước theo
kiểu “hèn với giặc, ác với dân”, xây nên một Việt Nam nghèo đói, cô đơn, chia
rẽ, Thủ tướng liệu có đi xa?
Cần nhớ rằng, lịch sử công bằng
và khách quan, non sông, xã tắc sẽ phán xét! Nếu không muốn trở thành tội đồ
của lịch sử, nếu không muốn nợ tương lai, Nguyên thủchỉ có con đường đứng
cùng dân tộc.
Ngày 22-6-2014.