Date:
Tue, 20 May 2014 15:45:28 -0700
Subject: Fwd: Để thắng được Trung Cộng
From: chu8sang@gmail.com
Subject: Fwd: Để thắng được Trung Cộng
From: chu8sang@gmail.com
Để thắng được Trung Cộng
Trần Trung Đạo
Posted on May 20, 2014
by DaVang
Câu nói “Không có đế
quốc nào tồn tại mãi mãi” thoạt nghe rất bình thường và hiển nhiên vì lẽ đơn
giản trên đời này không có gì tồn tại mãi mãi, tuy nhiên quy luật đó đã được
chứng minh rất nhiều lần trong lịch sử bằng bao máu xương của nhân loại. Một đế
quốc vừa hình thành ở Á Châu và đang đe dọa cho hòa bình thế giới: Đế quốc
Trung Cộng. Đế quốc này sẽ tồn tại thêm được bao lâu và sẽ sụp đổ bằng cách nào
vẫn còn là chủ đề được các nhà phân tích chính trị, các sử gia bàn cãi không
chỉ trên bên ngoài Trung Cộng mà ngay tại đầu não của cơ chế độc tài.
Trung Cộng tồn tại được
bao lâu?
Trên cả nước Trung Cộng có một nơi duy nhất được quyền phê bình đảng CS và một nhóm người rất nhỏ trong số hơn một tỉ dân được trao đặc quyền tự do tranh luận về ngày tàn của đảng CS mà không sợ trả thù, nơi đó là Trường Đảng Trung Ương trực thuộc Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSTQ và nhóm người đó là những cán bộ lý luận cao cấp của trường. Trong một biệt điện hoàng gia cũ ở phía tây Bắc Kinh được đổi thành Trường Đảng, một số nhỏ chuyên gia ưu tú nhất của trường dành trọn thời gian chỉ để làm một việc là phân tích mọi sai lầm của lãnh đạo đảng, mọi chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng, mọi kế hoạch kinh tế, các chính sách đối nội và đối ngoại của đảng.
Trên cả nước Trung Cộng có một nơi duy nhất được quyền phê bình đảng CS và một nhóm người rất nhỏ trong số hơn một tỉ dân được trao đặc quyền tự do tranh luận về ngày tàn của đảng CS mà không sợ trả thù, nơi đó là Trường Đảng Trung Ương trực thuộc Ban Chấp Hành Trung Ương Đảng CSTQ và nhóm người đó là những cán bộ lý luận cao cấp của trường. Trong một biệt điện hoàng gia cũ ở phía tây Bắc Kinh được đổi thành Trường Đảng, một số nhỏ chuyên gia ưu tú nhất của trường dành trọn thời gian chỉ để làm một việc là phân tích mọi sai lầm của lãnh đạo đảng, mọi chiến lược ngắn hạn cũng như dài hạn của đảng, mọi kế hoạch kinh tế, các chính sách đối nội và đối ngoại của đảng.
Và câu hỏi chính được đặt ra cho nhóm
người có đặc quyền này “Đảng CS sẽ tồn tại bao lâu và những khả năng nào xảy ra
sau khi đảng sụp đổ”. Dĩ nhiên mục đích tranh luận không phải để lật đổ chế độ
mà nhằm tìm các biện pháp thích nghi ngăn chận kịp thời mọi sai lầm, sơ sót để
cỗ máy độc tài khỏi rơi xuống hố như trường hợp Liên Xô.
Hiện nay tồn tại hai
quan điểm đối lập nhau về tương lai Trung Cộng. Một quan điểm của đảng CSTQ cho
rằng Trung Cộng là một nước có biệt lệ về văn hóa chính trị nên làn sóng cách
mạng dân chủ tại châu Âu trước đây cũng như Bắc Phi vừa qua không đập vào bờ
Trung Cộng. Một quan điểm khác gồm những học giả chuyên về Trung Cộng, trí thức
Trung Quốc có ảnh hưởng và ngay cả một số viên chức CS cao cấp có khuynh hướng
tự do cho rằng đảng CS phải chết nhưng vấn đề là chết bằng cách nào mà thôi.
Điều đó cũng cho thấy, nỗi lo sợ một ngày cơ chế độc tài CSTQ sẽ sụp đổ ám ảnh
thường xuyên trong suy nghĩ của lãnh đạo CSTQ và hai yếu tố lớn nhất dẫn đến sự
sụp đổ của Trung Cộng vẫn là chính trị và kinh tế.
Về chính trị. Bài học
Thiên An Môn cho lãnh đạo Trung Cộng biết nguy cơ hàng đầu vẫn là khát vọng tự
do của con người. Dân chủ là hướng đi của thời đại. Năm 1900 mở đầu cho thế kỷ
20 trên thế giới chỉ có 12 phần trăm nhân loại sống trong các cơ chế chính trị
được gọi là dân chủ. Đầu thế kỷ 21, 120 trong số 192 quốc gia được quốc tế công
nhận là những nước được lãnh đạo bởi các chính phủ do dân bầu. Nhiều lãnh đạo
CSTQ đổ lỗi sự sụp đổ của Liên Xô lên đầu Mikhail Gorbachev như Giáo sư Shen
Zhihua, chuyên viên về Liên Xô của đại học Đông Hoa và cả cựu Chủ Tịch Trung
Cộng Giang Trạch Dân từng phát biểu “Gorbachev phản bội cách mạng”. Tuy nhiên
họ cố tình không quan sát đến tiến trình chuyển hóa không ngừng của xã hội con
người.
Giáo sư Archie Brown thuộc
đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự vươn lên và sụp đổ của chủ nghĩa
Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) nêu ra 8 lý do khiến chủ nghĩa Cộng
sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải là kinh tế hay quân sự mà là sự
thay đổi xã hội. Sự chuyển hóa tri thức nhanh hay chậm tùy theo điều kiện mỗi
nước nhưng là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc
tài nào.
Những nguồn đối kháng từ bên trong các nước CS đã âm thầm lớn mạnh chỉ
chờ cơ hội là bùng vở như được chứng minh qua việc 300 ngàn thanh niên Đông Đức
tham dự buổi nhạc hội của Bruce Springsteen vào ngày 19 tháng Bảy 1988 và hàng
ngàn thanh niên Đông Đức hô to khẩu hiệu tự do muôn năm trên bờ tường Bá Linh
tối ngày 9 tháng 11 năm 1989. Sức sống của đất nước cũng như của xã hội là một
dòng chảy không bao giờ ngừng nghỉ, các thế lực cầm quyền độc tài chỉ là những
khe đá, có thể làm chậm dòng thác văn minh nhưng không thể ngào ngăn chận được.
Tóm lai, yếu tố chính tác động vào sự sụp đổ của Liên Xô, hệ thống CS tại châu
Âu và sẽ diễn ra tại Trung Cộng cũng như Việt Nam chính là nội lực phát xuất từ
xã hội, kết quả của các phong trào xã hội và sự chuyển hóa không ngừng của xã
hội.
Về mặt kinh tế xã hội.
Như lịch sử đã chứng minh sự phát triển của giai cấp trung lưu là nguồn thúc
đẩy của cách mạnh dân chủ vì đó là giai cấp có học thức, có phương tiện và có
nhiều nhu cầu vật chất cũng như tinh thần cần được thỏa mãn. Cách đây 20 năm,
giai cấp trung lưu này không tồn tại nhưng nay là một lực lượng đông đảo và
phát triển theo lũy thừa. Thành phần trung lưu chiếm 14 phần trăm dân số thành
thị tại Trung Cộng và có lợi tức bình quân từ 17 ngàn đô la đến 37 ngàn đô la.
Với hướng phát triển xã hội có tính quy luật đó, theo giáo sư David Shambaugh,
giám đốc Chương trình Chính sách Trung Quốc thuộc đại học George Washington sự
suy thoái của đảng CSTQ đang diễn ra sẽ giống như các triều đại Trung Hoa trước
đây, chiếm đoạt, hưng thịnh và sụp đổ.
Trong một tổng kết mới
đây The World Bank’s International Comparison Program cho rằng Trung Cộng với
GDP 2011 là 13.5 ngàn tỉ đô la, sẽ qua mặt Mỹ nhanh hơn dự đoán. Thống kê này
dựa trên việc so sánh sức mua tương đương (purchasing power parity) của hàng
hóa giữa hai quốc gia. Tuy nhiên nhiều nhà kinh tế không đồng ý vì không thể
dùng giá cả của những ổ bánh mì, bao thuốc lá để làm thước đo cho mức độ giàu
nghèo giữa hai nước trong lúc những món hàng quan trọng nhất lại không thể mua
tại Trung Cộng. Tom Wright của Wall Street Journal ví dụ một cách chính xác và
cụ thể, Trung Cộng không thể mua một chiếc tàu, một giàn hỏa tiển hay một chiếc
xe Đức đắt tiền mà phải trả bằng một giá hối suất cao gấp nhiều lần. Nếu tính
trên phạm vi cả nước, theo phân tích của Global Public Square staff, Trung Cộng
không đứng nhất, nhì hay thậm chí 30 mà đứng sau cả Peru.
Nhưng dù phát triển
kinh tế nhanh, sự phát triển đó vẫn phải đồng hành với các phát triển chính
trị, văn hóa để tạo nên một xã hội thịnh vượng hài hòa. Điều đó không tồn tại
tại Trung Cộng. Các thành tựu kinh tế của Trung Cộng được đổi bằng sự chịu
đựng, hy sinh, mồ hôi, xương máu của nhiều dân tộc khác và ngay tại Trung Cộng
hàng trăm triệu dân thiểu số vẫn phải tiếp tục sống trong xã hội tham nhũng,
độc tài, nghèo đói, bất công, bạc đãi. Hai nhà lý luận CS Lin Zhe và Chen Shu,
thành viên trong nhóm nhỏ của trường đảng có đặc quyền phê phán, mặc dù tin
rằng đảng CSTQ sẽ tồn tại lâu cũng thừa nhận tham nhũng kinh tế có thể làm sụp
đổ đảng. Bà Lin Zhe dành 20 năm để nghiên cứu phương pháp diệt tham nhũng tại
các cấp đảng vì theo bà “Tham nhũng là mối đe dọa nguy hiểm có thể dẫn đến sự
sụp đổ của đảng và nhà nước”.
Ngọn núi lửa Trung Cộng
Tuyệt đại đa số con
người không ai muốn chiến tranh và là người Việt Nam lại càng không muốn có
chiến tranh. Tuy nhiên, chiến tranh và hòa bình không phải là chuyện muốn hay
không muốn mà đó là hai mặt biện chứng nhân quả của một quá trình mang tính lập
lại của phát triển xã hội loài người. Sau khi hiệp ước Versailles được ký kết,
Thống chế Pháp Ferdinand Foch nhận xét “Đây không phải là hòa bình mà chỉ là
cuộc đình chiến hai mươi năm”. Thế chiến thứ hai bùng nổ 20 năm và 65 ngày sau
đó. Nhận xét của danh tướng Ferdinand Foch không phải là lời tiên đoán của các
ông thầy bói nhưng vì các nguyên nhân kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội dẫn
đến thế chiến thứ nhất chẳng những không giải quyết mà còn tác động vào nhau để
tạo thành nguyên nhân cho thế chiến thứ hai đẫm máu hơn. Tương tự, Trung Cộng
với chính sách cực đoan về cả đối nội lẫn đối ngoại đang là mầm mống cho một
chiến tranh khốc liệt tại Á Châu.
Đảng Cách Mạng Thể Chế
Mexico (Mexico’s Institutional Revolutionary Party) cầm quyền được 71 năm và
chế độ độc tài CS Liên Xô tồn tại được 74 năm nhưng cả hai đều đã mất quyền
lãnh đạo. Trung Cộng tồn tại đến nay được 65 năm nhưng liệu sẽ thoát ra ngoài
sự chi phối của quy luật “không có đế quốc nào tồn tại mãi” hay không.
Câu trả
lời dĩ nhiên là không. Một khi ngọn lửa chủ nghĩa dân tộc cực đoan Đại Hán như
giòng nham thạch đang cuồng cuộn sôi trong lòng núi, khả năng chuyển hóa từ độc
tài sang dân chủ một cách hòa bình tại Trung Cộng là một chuyện khó xảy ra. Với
các mâu thuẫn bên trong và thù địch bên ngoài vô cùng sâu sắc, không có cách
mạng nhung, cách mạng da cam nào mà chỉ có máu chảy ngập đường phố Bắc Kinh,
Thượng Hải và các vùng Tân Cương, Ninh Hạ, Nội Mông, Tây Tạng. Việt Nam với
quan hệ hữu cơ về chính trị tư tưởng và với vị trí chiến lược trong vùng biển
Đông cũng khó thoát khỏi ảnh hưởng đầy tai họa của cách mạng máu.
Giáo sư Yuan-kang Wang
thuộc đại học Western Michigan viết trong tạp chí Foreign Policy “Nếu quyền lực
tiếp tục gia tăng, Trung Quốc sẽ mở rộng ảnh hưởng đến vùng Đông Á. Chính sách
này sẽ không tránh khỏi tạo nên sự cạnh tranh an ninh với Mỹ trong khu vực và
các vùng chung quanh. Washington đang bước ra khỏi mối bận tâm Iraq và
Afghanistan và đang là ‘mấu chốt’ hướng tới Á Châu. Như người Trung Quốc thường
nói “Một núi không thể có hai cọp”, nhớ ráng hết sức mình, trò chơi còn tiếp
tục”. Ngọn núi lửa Trung Cộng sẽ phun tuy chưa biết chính xác ngày nào.
Bài học cho Việt Nam
Lịch sử để lại nhiều bài
học về chính sách đối ngoại khôn ngoan, nhưng đáng học nhất vẫn là bài học về
cách giải quyết xung đột giữa Thổ Nhĩ Kỳ và Liên Xô.
Từ khi thành lập nền
cộng hòa Thổ năm 1923, Thổ Nhĩ Kỳ là một nước cô đơn. Chiến tranh với Anh vừa
chấm dứt bằng chiến thắng nhưng bị các quốc gia dân chủ Tây Phương cô lập. Quân
đội không nhỏ nhưng chỉ được trang bị võ khí còn lại từ thời đế quốc Ottoman và
thế chiến thứ nhất. Để được an toàn, chính phủ Thổ kết thân với một anh láng
giềng bên kia Hắc Hải cũng đang bị cô lập, đó là Liên Xô.
Cuối thập niên 1930,
khi Đức Quốc Xã trở thành mối đe dọa, Stalin quyết định phải kiểm soát Eo Biển
Thổ Nhĩ Kỳ để ngăn chận các chiến hạm các quốc gia không thuộc vùng Hắc Hải di
chuyển qua đó và đề nghị Thổ cùng phối hợp để làm việc này. Thổ từ chối sang
nhượng chủ quyền Eo Biển. Stalin khó chịu nhưng vẫn phải tiếp tục duy trì quan
hệ hữu nghị với Thổ. Khi Thổ nhích gần tới Anh và Pháp qua việc tham gia Balkan
Pact 1934 và Saadabad Pact 1937 do khối Tây Phương chủ trương, Liên Xô công
khai bày tỏ quan điểm gọi là “khó hiểu khi Thổ lại thương thảo với những kẻ cựu
thù”.
Trước tham vọng xâm lược
ngày càng lộ liễu của Liên Xô, Thổ Nhĩ Kỳ chỉ còn một con đường duy nhất là
đứng hẳn về phía Tây Phương. Tuy nhiên, muốn thân các quốc gia dân chủ Tây
Phương, trước hết giới lãnh đạo Thổ phải tiến hành các cải tổ chính trị. Tổng
thống Mustafa İsmet Inonu, người tiếp tục chính sách của cố tổng thống Mustafa
Kemal Ataturk mở rộng chính phủ theo hình thức đa đảng. Mỹ đánh giá thiện chí
của Thổ qua các cải cách chính trị và cũng thấy cần phải tích cực ngăn chận ảnh
hưởng Liên Xô trên vùng Hắc Hải, đã gởi chiến hạm lừng danh USS Missouri đến
Istanbul vào tháng Tư 1946.
Thiết giáp hạm USS Missouri là niềm kiêu hãnh của
hải quân Mỹ, từng tham dự hai trận Iwo Jima và Okinawa, và cũng là nơi Mỹ nhận
sự đầu hàng của Nhật. Anh theo bước Mỹ, cùng tham gia cuộc diễn tập quân sự
trong vùng biển Aegean tháng Chín 1946. Báo chí Liên Xô lên án Mỹ, Anh và cho
rằng hai nước này đang thiết lập căn cứ quân sự trong vùng Eo Biển Thổ Nhĩ Kỳ.
Mỹ không thừa nhận nhưng cả thế giới lúc đó đều biết Mỹ quyết tâm bảo vệ Thổ
Nhĩ Kỳ. Cộng Hòa Thổ Nhĩ Kỳ từ một nước tách ra khỏi một đế quốc tan rã, giành
độc lập bằng xương máu chống lại khối dân chủ Tây Phương, bị cô lập, trung lập
trong thế chiến thứ hai nhưng đã khôn khéo từng bước xích lại gần với những kẻ
cựu thù và cuối cùng được trở thành hội viên của NATO. Để biết ơn và xiển dương
các giá trị dân chủ, mỗi năm chính phủ Thổ dành một ngân sách lớn để viện trợ
cho các đề án nhằm cải cách dân chủ khắp thế giới. Năm 2012, Thổ Nhĩ Kỳ viện
trợ 3.4 tỉ đô la cho 121 quốc gia. Thổ cũng dành riêng 1 tỉ đô la trong ngân
sách để viện trợ nhân đạo và được xếp vào hàng thứ tư trên thế giới chỉ sau Mỹ,
Cộng đồng Châu Âu và Anh Quốc.
Để thắng được Trung Cộng
Qua xung đột giữa Liên
Xô và Thổ Nhĩ Kỳ chúng ta có thể rút ra bốn điều kiện để thoát ra khỏi sự khống
chế và sẽ thắng được Trung Cộng trong trận cuối cùng:
1. Việt Nam phải có dân
chủ trước Trung Cộng. Phần đông các nhà
phân tích chính trị Việt Nam đồng ý rằng Việt Nam phải có dân chủ mới bảo vệ
được đất nước. Điều đó đúng nhưng cần phải nói thêm, dân chủ không chỉ giúp bảo
vệ đất nước mà còn để thắng được Trung Cộng. Ngoài ra, dân chủ phải đến sớm,
đừng đợi đến khi chiến tranh Á Châu bùng nổ, máu đổ, thây phơi mới đến. Chỉ có
một Việt Nam đoàn kết dưới ngọn cờ dân chủ mới thật sự tập trung được sức mạnh
tổng hợp của dân tộc và là nền tảng cho một quốc gia dân chủ thịnh vượng lâu
dài. Trung Cộng không sợ USS George Washington hay bom nguyên tử mà sợ dân chủ
và rất lo “sân sau” CSVN trở thành một nước dân chủ. Vũ khí dân chủ sẽ gây một
phản ứng dây chuyền dẫn tới sự tan vỡ toàn bộ cơ chế CS. Một Trung Cộng mênh
mông có nguy cơ tan thành nhiều mảnh, chủ quyền ngay tại lục địa còn không giữ
được nói chi là chủ quyền trên hai nhóm đảo Hoàng Sa, Trường Sa xa xôi.
2. Đoàn kết dân tộc. Dân chủ là điều kiện tiền đề trong chính sách đối ngoại nhằm tạo
sự tin cậy nơi các nước dân chủ Tây Phương nhưng quan trọng nhất là nền tảng của
đoàn kết dân tộc. Một dân tộc chia rẽ không thắng được ai. Đây là thời điểm để
xác định lại lòng yêu nước. Yêu nước ngày nay không phải là phó sản của chủ nghĩa
dân tộc cực đoan hay bùa mê CS mà gắn liền với với quyền lợi sống còn của đất
nước và hướng đi dân chủ nhân bản của thời đại. Trong cuộc chiến tranh giữa Mỹ
và Iraq, nhiều người nghĩ kẻ có lợi nhiều nhất sẽ là dân tộc Kurds. Nhưng không,
họ là những người chịu đựng thiệt thòi nhiều nhất.
Trong chiến tranh vùng Vịnh
lần thứ nhất, Saddam Hussein tàn sát không thương tiếc các cuộc nổi dậy của nhân
dân Kurds ly khai trước sự làm ngơ của Mỹ. Nhiều nhà phân tích cho rằng Mỹ phản
bội lý tưởng độc lập của nhân dân Kurds. Điều đó chỉ đúng một nửa. Nửa còn lại
là sự phân liệt vô cùng trầm trọng trong tập thể 35 triệu Kurds sống trong nhiều
quốc gia vùng Tây Á. Một dân tộc chia rẽ, cấu xé nhau, không có một hướng đi
chung, không thể vận dụng được sự ủng hộ từ quốc tế và cũng không xứng đáng để
được quốc tế ủng hộ. Tương tự, Mỹ bỏ 900 tỉ đô la hay 3 ngàn tỉ đô la tùy theo
cách tính và 4486 nhân mạng để lật đổ Sadam Hussein, không phải chỉ nhằm đem lại
hòa bình dân chủ cho nhân dân Iraq.
Tuy nhiên, nếu là một dân tộc khôn ngoan,
đây là cơ hội giúp Iraq vượt qua những khó khăn trong vài năm nữa trở thành một
cường quốc trong thế giới Ả Rập và nếu họ không làm được thì cũng đừng đỗ thừa
cho Mỹ, đổi tội cho Saddam Hussein mà phải trách ở chính mình.
3. Chủ động chiến lược
hóa vị trí quốc gia. Việt Nam chỉ trở
thành một vị trí chiến lược sau khi Trung Cộng thôn tính toàn lục địa Trung Hoa
1949 nhưng trước đó thì không. Tương tự, Ai Cập trước 1976 không quan trọng hơn
Thổ Nhĩ Kỳ hay Iran nhưng sau khi Tổng thống Anwar Sadat bỏ đồng minh Liên Xô
để bước sang phía thế giới tự do, Ai Cập trở nên một đồng minh chiến lược của
Mỹ ở Trung Đông và được viện trợ ít nhất 1.5 tỉ đô la hàng năm từ đó đến nay.
Vì lợi ích kinh tế cũng như về các giá trị nhân quyền, Mỹ mong muốn được thấy
Trung Cộng trở thành một quốc gia dân chủ trong một châu Á và Thái Bình Dương
ổn định. Trung Cộng là nhà băng của nhiều quốc gia trên thế giới kể cả Mỹ,
nhưng không giống như các công ty tài chánh Lehman Brothers hay Merrill Lynch,
khủng hoảng chính trị tại Trung Cộng sẽ gây tác hại vô cùng trầm trọng đối với
nên kinh tế thế giới không thể đo lường được.
Biết chủ động chiến lược hóa,
quốc tế hóa, quan trọng hóa vị trí của quốc gia cũng như biết khai thác mối lo
của cường quốc sẽ làm cho vị trí của quốc gia quan trọng hơn trong tranh chấp
quốc tế. Trái lại, chủ trương của lãnh đạo CSVN “không tham gia các liên minh
quân sự, không là đồng minh quân sự của bất kỳ nước nào, không cho bất cứ nước nào
đặt căn cứ quân sự ở Việt Nam và không dựa vào nước này để chống nước kia” là
chủ trương tự cô lập, không đúng về lý thuyết lẫn thực tế chính trị và sẽ chết
tức tưởi trong cô đơn mà không được ai ngó ngàng.
4. Đoàn kết với láng
giềng cùng hoàn cảnh và tham gia các liên minh tin cậy: Việt Nam đang đứng trước những ngã ba, ngã năm trong bang
giao quốc tế nhưng dù bao nhiêu ngã cũng chỉ có thể đi trên một con đường trong
một thời điểm nhất định. Sự liên minh khôn khéo trong nhiều trường hợp giúp
quốc gia tránh được chiến tranh hay có thêm thời gian để chuẩn bị chiến tranh.
Giáo sư Alastair Smith thuộc đại học Washington University đã công thức hóa
toán học nhiều mô thức liên minh trong lịch sử bang giao quốc tế và kết luận
các quốc gia có những liên minh không đáng tin cậy sẽ dễ bị tấn công hơn là các
quốc gia có sự liên minh tin cậy.
Hiện nay tại Á Châu có bốn liên minh quân sự
gồm ba liên minh tin cậy Mỹ-Nhật, Mỹ-Phi, Mỹ-Nam Hàn và liên minh SCO về biên
giới gồm Trung Cộng, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Russia, Tajikistan và Uzbekistan.
Khi chảo dầu Á châu được đun nóng hơn, nhiều liên minh quân sự mới tương tự như
Tổ chức Liên phòng Đông Nam Á (SEATO) trong thời chiến tranh Việt Nam sẽ ra
đời. Đối với Mỹ, vùng biển Đông Á là huyết mạch kinh tế lẫn an ninh của các
nước đồng minh với Mỹ như Nhật Bản, Nam Hàn, Philippines, Indonesia, liên minh
được với Mỹ vừa có thể thúc đẩy tiến trình hiện đại hóa đất nước vừa bảo đảm an
ninh.
Bốn điều kiện để thắng
được Trung Cộng chỉ có thể thực hiện nếu lãnh đạo là những người thực tâm vì
đất nước. Điều đó không có tại Việt Nam. Rồi mai đây, sau trận đánh ghen HD-981
này, lãnh đạo CSVN lại lên đường sang Bắc Kinh triều cống, lại 16 chữ vàng, lại
ca ngợi tình đồng chí, nghĩa anh em thắm thiết. Cơn hờn giận giữa hai đảng CS
theo thời gian có thể sẽ nguôi ngoai nhưng trên các vùng biên giới, trong lòng
biển Việt Nam, máu của ngư dân Việt Nam, của người lính biển Việt Nam sẽ không
ngừng chảy. Dân tộc Việt Nam lại bị đảng dắt đi vòng vòng trong ngõ cụt tối tăm
như đã và đang đi suốt 39 năm qua. Do đó, chọn lựa một lối thoát, một hướng đi
cho đất nước không phải là chọn lựa của lãnh đạo CSVN nhưng 90 triệu người dân
Việt Nam phải can đảm đứng lên quyết định vận mạng chính mình.
Trần Trung Đạo
Học giả Mỹ kêu
gọi Washington đáp lại 'thách thức Trung Quốc'
Chuyển tiếp,
Trong mục
"Opinions" đăng trên nhật báo Washington Post
số ra ngày 15 tháng 5, 2014, hai học giả Mỹ là Elizabeth Economy và Michael
Levi, đang là "Senior Fellows" trong Council on Foreign Relations,
một trong những viện nghiên cứu chính sách hàng đầu của Hoa Kỳ, viết rằng những
gì đang diễn ra trên Biển Đông “nguy hiểm hơn rất nhiều” so với trước đây, và
kêu gọi chính phủ Hoa Kỳ đương đầu với “thách thức Trung Quốc”:
Rein in Beijing
Rein in Beijing
Học giả Mỹ kêu
gọi Washington đáp lại 'thách thức Trung Quốc'
Hai nhà nghiên
cứu cấp cao Elizabeth Economy và Michael Levi thuộc Hội đồng Quan hệ Đối ngoại
(Council on Foreign Relations) - một trong những viện nghiên cứu chính sách
hàng đầu của Mỹ - viết rằng những gì đang diễn ra ở Biển Đông “nguy hiểm hơn
rất nhiều” so với trước đây và kêu gọi Mỹ đương đầu với “thách thức Trung
Quốc.”
Bài viết xuất hiện trong phần xã luận quan điểm của nhật báo Washington Post hôm thứ Sáu 16 tháng 5, một trong những tờ báo lớn và uy tín nhất ở Mỹ.
Hai tác giả nhận định rằng việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam không phải là vì dầu mỏ mà thứ nhất là vì “tinh thần dân tộc.”
Đề cập đến việc Trung Quốc thực thi chủ quyền trên thực tế ở Hoàng Sa từ năm 1974, hai tác giả nói “rút khỏi Hoàng Sa sẽ giáng một cú vào lòng tự tôn của Trung Quốc, trong khi khẳng định quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với quần đảo này sẽ củng cố tính chính danh của giới lãnh đạo ở nhà.”
Thứ hai là “khao khát kiểm soát những hải lộ ở Biển Đông” của Trung Quốc.
Economy và Levi chỉ ra rằng 5 ngàn tỉ USD khối lượng trao đổi thương mại đi qua vùng biển ngày càng đông đúc này mỗi năm. Trong số này có gần một phần ba khối lượng dầu mỏ thế giới vận chuyển trên biển và hơn ba phần tư dầu nhập khẩu của Trung Quốc (cũng như phần lớn dầu chở tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.)
“Hải quân Trung Quốc có thể còn quá yếu để thách thức sự thống trị của Mỹ trên những hải lộ chủ chốt ở Trung Đông, hoặc thậm chí kiểm soát Eo biển Malacca trọng yếu, nhưng cho lực lượng hải quân hoạt động khắp Biển Đông, Trung Quốc có thể thêm phần tin tưởng rằng Mỹ sẽ không thể làm gián đoạn nguồn cung ứng của họ,” hai nhà nghiên cứu nhận định.
Hành động mới nhất của Trung Quốc đối với Việt Nam, theo lời Economy và Levi, là lý do để Mỹ nên theo đuổi một vai trò chủ động hơn ở Biển Đông.
“Việt Nam đã nhấn mạnh cam kết của mình giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Nếu Trung Quốc không đáp lại, Mỹ phải sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam bằng việc tăng cường hiện diện hải quân.
“Nếu Mỹ không chứng minh lời nói bằng hành động, uy tín của Mỹ trong việc hứa hẹn ủng hộ hòa bình và ổn định trong khu vực sẽ là rỗng không,” bài viết kết luận.
Bài viết xuất hiện trong phần xã luận quan điểm của nhật báo Washington Post hôm thứ Sáu 16 tháng 5, một trong những tờ báo lớn và uy tín nhất ở Mỹ.
Hai tác giả nhận định rằng việc Trung Quốc đưa giàn khoan vào sâu trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam không phải là vì dầu mỏ mà thứ nhất là vì “tinh thần dân tộc.”
Đề cập đến việc Trung Quốc thực thi chủ quyền trên thực tế ở Hoàng Sa từ năm 1974, hai tác giả nói “rút khỏi Hoàng Sa sẽ giáng một cú vào lòng tự tôn của Trung Quốc, trong khi khẳng định quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với quần đảo này sẽ củng cố tính chính danh của giới lãnh đạo ở nhà.”
Thứ hai là “khao khát kiểm soát những hải lộ ở Biển Đông” của Trung Quốc.
Economy và Levi chỉ ra rằng 5 ngàn tỉ USD khối lượng trao đổi thương mại đi qua vùng biển ngày càng đông đúc này mỗi năm. Trong số này có gần một phần ba khối lượng dầu mỏ thế giới vận chuyển trên biển và hơn ba phần tư dầu nhập khẩu của Trung Quốc (cũng như phần lớn dầu chở tới Nhật Bản, Hàn Quốc và Đài Loan.)
“Hải quân Trung Quốc có thể còn quá yếu để thách thức sự thống trị của Mỹ trên những hải lộ chủ chốt ở Trung Đông, hoặc thậm chí kiểm soát Eo biển Malacca trọng yếu, nhưng cho lực lượng hải quân hoạt động khắp Biển Đông, Trung Quốc có thể thêm phần tin tưởng rằng Mỹ sẽ không thể làm gián đoạn nguồn cung ứng của họ,” hai nhà nghiên cứu nhận định.
Hành động mới nhất của Trung Quốc đối với Việt Nam, theo lời Economy và Levi, là lý do để Mỹ nên theo đuổi một vai trò chủ động hơn ở Biển Đông.
“Việt Nam đã nhấn mạnh cam kết của mình giải quyết tranh chấp một cách hòa bình. Nếu Trung Quốc không đáp lại, Mỹ phải sẵn sàng hỗ trợ Việt Nam bằng việc tăng cường hiện diện hải quân.
“Nếu Mỹ không chứng minh lời nói bằng hành động, uy tín của Mỹ trong việc hứa hẹn ủng hộ hòa bình và ổn định trong khu vực sẽ là rỗng không,” bài viết kết luận.
No comments:
Post a Comment