Cách ứng xử nào cho Biển Đông?
Dương Danh Huy gửi cho BBCVietnamese.com từ Anh quốc
- 29
tháng 12 2016
Báo Giáo dục vừa đăng bài của TS Trần Công Trục bình
luận về bài "Philippines phá hư thế trận Biển Đông" của tôi. Trong
bài này, tôi sẽ bàn về những vấn đề hữu quan.
Đàm phán là không đủ
Trước hết, cần khẳng định rằng việc đàm phán với Trung Quốc tuy cần
thiết nhưng không đủ cho việc bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền Việt Nam.
Thí dụ, do Trung Quốc khăng khăng rằng không tồn tại tranh chấp
Hoàng Sa, không có cửa ngỏ cho việc đàm phán. Trong trường hợp này, Việt Nam
cần phải đấu tranh. Như một thí dụ khác, khi Trung Quốc đòi quyền lợi bên trong
vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam trong những khu vực Nam Côn
Sơn, Tư Chính, vv, vì đòi hỏi đó hoàn toàn vô lý, Việt Nam cũng không thể đàm
phán. Trong trường hợp này, Việt Nam cần phải phải kháng cự.
Ngay cả đối với những vấn đề được đàm phán, Trung Quốc sẽ chèn ép
Việt Nam và đàm phán có thể bị bế tắc, cho nên Việt Nam vẫn phải củng cố khả
năng để kháng cự và đấu tranh vì có thể sẽ cần.
Do đó, dù có đàm phán hay tiến đến đàm phán trong một số lãnh vực,
đối sách của Việt Nam không thể thiếu hai yếu tố kháng cự và đấu tranh. Đấu
tranh và kháng cự không phải là duy ý chí hay không biết người biết ta, mà là
vì sự ngang ngược của Trung Quốc không để cho Việt Nam lựa chọn nào khác nếu
muốn bảo vệ chủ quyền và quyền chủ quyền.
Cần sự ủng hộ của thế giới
Với tương quan thực lực Việt Nam-Trung Quốc, Việt Nam cần tăng
cường và bổ sung cho khả năng kháng cự và đấu tranh bằng cách tranh thủ sự ủng
hộ của thế giới, và đặc biệt là của Mỹ.
"Ủng hộ" ở đây không có nghĩa Việt Nam dựa vào Mỹ, không
có nghĩa Mỹ hy sinh xương máu cho Việt Nam. Do đó các luận điểm của TS Trần
Công Trục như dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc có thể sẽ trả giá đắt, Mỹ không
sẵn sàng hy sinh xương máu cho Việt Nam, không phải là phản biện về sự ủng hộ
tôi nói đến. Cần lưu ý rằng "ủng hộ" đa dạng hơn và tế nhị hơn
"hy sinh xương máu" rất nhiều, và sự ủng hộ phi xương máu có thể có
hiệu quả hơn cả hy sinh xương máu.
Không nên xem vấn đề là dựa vào Mỹ để chống Trung Quốc, vì vấn đề
là tận dụng yếu tố quốc tế và Mỹ nhằm bổ xung cho khả năng tự vệ.
Cũng cần lưu ý rằng Trung Quốc ráo riết tranh thủ sự ủng hộ của
thế giới. Nếu đến việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới mà Việt Nam còn quan
ngại rằng nó sẽ "tạo cho Trung Quốc cái cớ để độc chiếm Biển Đông",
thì điều đáng quan ngại chính là Việt Nam sẽ ngày càng mất thêm vì quá thụ
động.
Tất nhiên nếu các nước nhỏ trong tranh chấp có cùng một quan điểm
trong việc tranh thủ sự ủng hộ của thế giới thì sẽ hữu hiệu hơn trống đánh xuôi
kèn thổi ngược.
Cần gác mâu thuẫn để đoàn kết
TS Trục cho rằng khả năng tạo lập thế trận đoàn kết giữa các nước
nhỏ trong bối cảnh hiện nay là không cao. Tất nhiên hiện nay khả năng này là không
cao. Tôi đã nói rằng thế trận đó đã bị phá hư từ khi còn phôi thai.
Nhưng nỗ lực và các thành tích của Việt Nam và Philippines trong
việc xây dựng sự đoàn kết trong những năm qua cho thấy trên nguyên tắc việc đó
là khả thi. Dù là hai nước Đông Nam Á có mâu thuẫn lớn nhất ở Trường Sa, Việt
Nam và Philippines đã là hai nước đoàn kết nhất. Dù Việt Nam và Malaysia cũng
có mâu thuẫn về Trường Sa, việc hai nước nộp đệ trình chung về thềm lục địa lên
Ủy ban Ranh giới Thềm lục địa UNCLOS cũng cho thấy trên nguyên tắc việc xây
dựng sự đoàn kết là khả thi.
Ngoài ra, luận điểm "giữ gìn hòa bình và ổn định cho Biển
Đông" không phải là hợp lý để phản biện chủ trương xây dựng sự đoàn kết
đó. Khó cho rằng những nỗ lực như trên không phải là giữ gìn hòa bình và ổn
định trong cho Biển Đông.
Giữ gìn hòa bình và ổn định?
Không người Việt nào không muốn hòa bình và ổn định cho Biển Đông,
nhưng vấn đề là Trung Quốc có chủ trương phá vỡ chúng, và chúng ta nên làm gì
để phòng chống. Khả năng Trung Quốc manh động sẽ cao hơn nếu các nước nhỏ trong
tranh chấp không đoàn kết dựa trên một nền tảng chung nào đó, và nếu thế giới
không có nhiều quan tâm đến Biển Đông. Trước một Trung Quốc muốn xâm lấn, việc
Việt Nam bổ xung cho khả năng kháng cự bằng cách vận động sự ủng hộ của thế
giới chính là giữ gìn hòa bình và ổn định.
Ngoài ra, cần cân bằng luận điểm của TS TC Trục về giảm tối đa
việc "tạo ra những cái cớ Trung Quốc mong muốn [để manh động]" bằng
truyện Sói và Cừu của La Fontaine. Sói không cần cừu tạo ra những cái cớ; cừu
có giảm tối đa việc "tạo ra những cái cớ" cũng vẫn chết dưới tay sói.
Trung Quốc bắt thiết bị ngầm của Mỹ, xây đảo nhân tạo, đặt giàn khoan HD 981,
cắt cáp tàu Bình Minh và Viking, đuổi ExxonMobil và BP, chiếm đá Vành Khăn, ký
hợp đồng với Crestone về bãi Tư Chính, chiếm những đảo ở Trường Sa, chiếm Hoàng
Sa, có cần nước nào tạo ra những cái cớ?
Phán quyết Trọng tài
TS Trần Công Trục phản biện rằng rằng tuyệt đối hóa vai trò của
Phán quyết, xem nó như chìa khóa vạn năng có thể giải quyết mọi vấn đề, là không
phù hợp với thực tế. Nhưng điều tôi nói là phán quyết là cơ hội vàng cho các
nước nhỏ trong tranh chấp, và điều đó khác với "tuyệt đối hóa" hay
"chìa khóa vạn năng".
TS Trục cho rằng vấn đề kế tiếp và quan trọng nhất là làm thế nào
để thực hiện được Phán quyết, và ông trả lời rằng gác phán quyết sang một bên
để đối thoại và đàm phán là phù hợp hơn cả.
Nhưng sẽ ngây thơ nếu tin rằng đối thoại và đàm phán có thể dẫn
đến việc thực hiện được Phán quyết. Nếu trong trong tranh chấp và đàm phán
Trung Quốc tung ra hành động và yêu sách đi ngược với phán quyết thì
Philippines và Việt Nam phải làm gì? Sẽ chấp nhận một phần yêu sách của họ?
Không thể được. Sẽ thuyết phục được họ từ bỏ yêu sách và chấm dứt hành động,
không tái phạm? Không khả thi.
Do đó, chúng ta không nên nghĩ về Phán quyết như một mục đích,
kiểu "làm sao để thực hiện được nó". Thay vào đó, nên nghĩ về nó như
một phương tiện, kiểu "làm sao để vận dụng nó để hỗ trợ công cuộc phòng
chống những bước xâm lấn kế tiếp từ Trung Quốc". Nếu gác Phán quyết sang
một bên thì đó là gác sang một bên một phương tiện có lợi cho Philippines, Việt
Nam, Malaysia, Brunei và Indonesia.
Tất nhiên Philippines không hủy bỏ Phán quyết, nhưng vấn đề là khi
đến ngày nào đó họ đem nó ra đặt vấn đề với Trung Quốc và để kêu gọi sự ủng hộ
của thế giới thì lúc đó có thể không còn thời cơ nữa.
Cách ứng xử của Duterte
TS Trục cho rằng ông Duterte "đã rất khéo léo nếu không muốn
nói là 'tinh quái'"" trong ứng xử với hai siêu cường Mỹ-Trung để
"tối đa hóa lợi ích cho đất nước".
Tôi nghĩ không thể cho cách ông Duterte ứng xử với Mỹ là khéo léo
hay tinh quái. Không nước nào muốn trung lập giữa hai siêu cường lại ứng xử như
thế. Ông Duterte cũng khó có thể "tinh quái" đủ để "chơi
trên" Trung Quốc và Mỹ.
Về ông có tối đa hóa lợi ích cho Philippines hay không, tôi xin
trích lời cựu Ngoại trưởng Philippines Abert del Rosario:
"Sự thay đổi trong chính sách ngoại giao mà [Tổng thống
Duterte] tuyên bố, bỏ qua một bên một đồng minh lâu đời và đáng tin cậy để ôm
lấy một cách hấp tấp một nước láng giềng hung hăng vốn bác bỏ luật quốc tế một
cách kịch liệt, vừa không khôn ngoan, vừa không thể hiểu được."
Ông cũng cho rằng:
"Hiện nay chúng ta có vẻ như đang trên đường đi đến việc từ
bỏ những thắng lợi mà chúng ta đã đạt được [trong Phán quyết] cho lợi ích của
nhân dân chúng ta."
Ngay cả cựu Tổng thống Fidel Ramos, người được ông Duterte chọn
làm sứ giả đặc biệt với Trung Quốc, đã hỏi:
"Chẳng lẽ chúng ta vứt bỏ một cách dễ dàng như thế hàng chục
năm là đối tác quân sự [với Mỹ], sự thành thạo chiến thuật, vũ khí tương thích,
hậu cần đáng tin cậy, tình đồng đội giữa những người lính [Mỹ và Philippines]? Tổng
thống Duterte nói thì chúng ta làm?"
Ông còn viết trên báo rằng ông Duterte "tự bắn súng vào miệng
mình và vào cả miệng tất cả chúng ta, 101.5 triệu người Philippines".
Khi tôi đưa ra quan điểm cho rằng cách ứng xử của ông Duterte là
quy phục Trung Quốc, và nếu Việt Nam theo cách ứng xử đó thì cũng là quy phục
Trung Quốc, TS Trục phản biện bằng cách nhắc về cách ứng xử của vua Trần Thánh
Tông và vua Trần Nhân Tông với nhà Nguyên.
Nhưng cách ứng xử như của ông Duterte rất khác với cách ứng xử của
hai vị vua này cho nên, theo ý tôi, không thể dùng cách của họ để biện minh cho
cách như của ông.
Tương tự, dù có khi đối sách của Việt Nam được ví với của hai vị
vua này, lãnh đạo và các nhà hoạch định chính sách Việt Nam cần luôn luôn tự
xét xem trong tranh chấp Biển Đông khả năng lèo lái của họ có giống của vua Tự
Đức hơn không.
Bài phản ánh quan điểm và văn phong của tác giả, nhà nghiên cứu
hiện sống tại Anh quốc.
__._,_.___