Indonesia đẩy mạnh thăm
dò dầu khí, đánh bắt cá ở Biển Đông
29.06.2016
Tổng thống Indonesia Joko Widodo trên tàu Hải quân Indonesia KRI
Imam Bonjol trong chuyến thăm tới các vùng biển ngoài khơi quần đảo Natuna,
ngày 23/6/2016.
Tổng thống Indonesia hôm 29/6 ra lệnh mở rộng việc thăm dò dầu khí
và đánh cá thương mại ở vùng biển gần quần đảo Natuna. Đây là động thái mới nhất
trong chiến dịch của Indonesia nhằm khẳng định chủ quyền ở một phần của Biển
Đông.
Tuần trước, Indonesia đã tiến hành bước đi chưa từng có với việc Tổng
thống Widodo lần đầu tiên đi tới Natuna để đòi chủ quyền về chuỗi đảo xa xôi,
nơi Trung Quốc nói có “tuyên bố chủ quyền chồng lấn”.
Ông đã họp nội các trên một chiến hạm và các quan chức Indonesia đã
mô tả đó là thông điệp mạnh nhất gửi đến Trung Quốc.
Ông Rizal Ramli, bộ trưởng điều phối các vấn đề biển, nói Indonesia
muốn khu vực Natuna trở thành một trung tâm về chế biến khí và các ngành liên
quan.
Trước đó, Tổng thống Widodo nói mới chỉ có 5 trong 16 lô ở Natuna
đang sản xuất và nước ông muốn thúc đẩy để các lô còn lại đi vào sản xuất sớm
hơn. Mỏ khí Đông Natuna được coi là một trong những mỏ khí chưa khai thác lớn
nhất thế giới.
Chính phủ Indonesia cũng muốn phát triển ngành đánh cá thương mại
ở Natuna. Vùng biển này thường có các tàu của Việt Nam, Philippines, Trung Quốc
và một số nước khác đến đánh bắt. Ông Widodo nói ngành ngư nghiệp quanh Natuna
mới chỉ đạt 9% tiềm năng.
Hải quân Indonesia đã gia tăng tuần tra quanh quần đảo sau một loạt
các vụ chạm trán giữa các tàu hải quân Indonesia và tàu cá Trung Quốc. Hiện Indonesia
có 800 quân nhân ở vùng Natuna, trong năm nay con số đó sẽ tăng lên 2000.
Hôm 28/6, quốc hội Indonesia đã duyệt việc tăng chi tiêu quốc phòng
thêm 10% và một số biện pháp nâng cấp đáng kể các cơ sở quân sự ở Natuna. Theo
đó, ngân sách quốc phòng năm 2016 là 8,25 tỷ đôla.
Indonesia phản đối việc Trung Quốc đưa quần đảo kể trên vào đường
9 đoạn – còn gọi là đường lưỡi bò – mà Trung Quốc dùng để đòi chủ quyền đối với
hầu hết Biển Đông.
Hai nước Việt Nam và Philippines cũng có nhiều tranh chấp với Trung
Quốc và phản đối đường lưỡi bò.
Theo Dailymail, Beitbart.com, Japantimes.com.jp
Sau khi Đại
hội XII đã chỉ giải quyết được vấn đề nhân sự chủ chốt nhưng vẫn không giải
quyết được bất kỳ một vấn đề trầm kha nào về kinh tế, xã hội và càng không biết
làm sao để cải thiện tình trạng rỗng ruột của ngân sách, những dấu hiệu và biểu
hiện “tự diễn biến” trong nội bộ tổ chức đảng, đội ngũ cán bộ đảng viên và
trong hệ thống các đơn vị vệ tinh xoay quanh trục đảng vẫn tiếp tục đà gia tăng
khá ấn tượng.
‘Nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ’
Trong tình hình ngân sách cạn kiệt vào nửa đầu năm 2016, một hiện
tượng dư luận xã hội và truyền thông đáng chú ý đang diễn ra: những chỉ trích
không tránh khỏi đối với hiệu quả hoạt động của một số tổ chức chính trị – xã
hội lớn – còn có cách ví von như “cánh tay nối dài của đảng” – bao gồm các nhân
tố Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản
Hồ Chí Minh, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam và Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam.
Nếu trước đây kinh phí dành cho các tổ chức chính trị – xã hội trên thường không được lôi ra bình phẩm, thì nay ngay cả một số tờ báo nhà nước cũng bắt đầu bình luận mang màu sắc giễu cợt, châm biếm và chỉ trích.
Không phải “chỉ có” 14.000 tỷ đồng được ngân sách vung cho các tổ chức chính trị – xã hội như một số báo đài đưa tin, mà một đánh giá của Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) còn cho biết nguồn lực xã hội được rót vào các tổ chức công chiếm tới 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương với hơn 71.000 tỷ đồng.
Một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam bức bối: đã đến lúc các tổ chức chính trị – xã hội trên nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ.
Nhiều người đánh giá rằng so với nguồn kinh phí rất lớn nhận được hàng năm từ bầu sữa nhà nước, công sức và hiệu quả của các tổ chức chính trị – xã hội trên bỏ ra là hoàn toàn bất tương xứng. Còn nếu nhìn từ góc độ ngân sách được cấu tạo bằng tiền đóng thuế của dân và tiền vay mượn nước ngoài mà các đời dân chúng phải nai lưng gánh chịu, sự thể còn trở nên tàn nhẫn hơn nhiều.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống – một tiếng nói bất đồng ở Việt Nam – còn nói thẳng rằng cần suy nghĩ đến việc giải thể Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Vì sao lại ra nông nỗi ấy? Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm được gì để “đoàn kết các tầng lớp trí thức và nhân dân xây dựng một đất nước phồn vinh”?
Nếu trước đây kinh phí dành cho các tổ chức chính trị – xã hội trên thường không được lôi ra bình phẩm, thì nay ngay cả một số tờ báo nhà nước cũng bắt đầu bình luận mang màu sắc giễu cợt, châm biếm và chỉ trích.
Không phải “chỉ có” 14.000 tỷ đồng được ngân sách vung cho các tổ chức chính trị – xã hội như một số báo đài đưa tin, mà một đánh giá của Viện nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VERP) còn cho biết nguồn lực xã hội được rót vào các tổ chức công chiếm tới 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương với hơn 71.000 tỷ đồng.
Một nhà phản biện độc lập ở Việt Nam bức bối: đã đến lúc các tổ chức chính trị – xã hội trên nên chấm dứt hoạt động, nếu còn biết liêm sỉ.
Nhiều người đánh giá rằng so với nguồn kinh phí rất lớn nhận được hàng năm từ bầu sữa nhà nước, công sức và hiệu quả của các tổ chức chính trị – xã hội trên bỏ ra là hoàn toàn bất tương xứng. Còn nếu nhìn từ góc độ ngân sách được cấu tạo bằng tiền đóng thuế của dân và tiền vay mượn nước ngoài mà các đời dân chúng phải nai lưng gánh chịu, sự thể còn trở nên tàn nhẫn hơn nhiều.
Giáo sư Nguyễn Đình Cống – một tiếng nói bất đồng ở Việt Nam – còn nói thẳng rằng cần suy nghĩ đến việc giải thể Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Vì sao lại ra nông nỗi ấy? Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã làm được gì để “đoàn kết các tầng lớp trí thức và nhân dân xây dựng một đất nước phồn vinh”?
Mặt thật
Trong thực tế, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã “phát huy” vai trò hiệp
thương của cơ quan này đúng như tuyên bố “Dân chủ đến thế là cùng!” của Tổng Bí
thư Trọng. Bằng chứng gần gũi và sống động nhất là trong cuộc bầu cử Quốc hội
tháng 5/2016, tuyệt đại đa số các ứng cử viên độc lập đã bị loại thẳng thừng,
chủ yếu qua những màn đấu tố thô bạo không khác mấy so với thời Cải cách ruộng
đất cách đây đến bảy chục năm.
Thời gian tiến về trước nhưng lịch sử cứ bị kéo lui. Cũng trong cuộc bầu cử Quốc hội vừa kể, thậm chí tỷ lệ người ngoài đảng đã rớt xuống chỉ còn khoảng 4%, so với “10% theo tiêu chí”. Nghịch lý quá bất nhẫn là trong khi kinh phí dành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tăng gấp đôi so với những năm trước, số người tự ứng cử lọt vào Quốc hội lại giảm đi phân nửa so với những kỳ bầu cử Quốc hội trước đó. Nhưng ngay cả những người “trúng cử” cũng bị dư luận coi là “gà” của các cơ quan chính quyền và hội đoàn nhà nước.
Một bằng chứng sống sượng khác: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hầu như không chia sẻ với bất kỳ tổ chức và nhân vật tôn giáo nào khác thể hiện tiếng nói và hành dộng khác với chủ ý độc trị của đảng cầm quyền. Thậm chí ngược lại, giới lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tự nguyện biến thành cánh tay đắc lực giúp cho đảng bóp nghẹt hơn quyền tự do tôn giáo của người dân – được hiến định qua các hiến pháp nhưng còn lâu mới được khẳng định trong một văn bản luật về tôn giáo.
Trong khi đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng trở nên vô tích sự và phản cảm không kém. Từ khi có luật Lao động, tổ chức này đã chưa hề chủ động tổ chức một cuộc đình công hoặc lãn công nào cho công nhân, bất chấp vô số khó khăn và bất công trùm phủ lên đầu lớp công nhân vừa nghèo vừa đói cùng hàng ngàn cuộc đình công tự phát của công nhân nổ ra hàng năm.
Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để “khoanh vùng đối tượng” và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công.
Từ rất nhiều năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng đương nhiên trở thành một khâu trung gian hưởng ít nhất 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp. Số tiền không nhỏ này, cộng với khoản ngân sách mập mạp hàng năm, đã biến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành một gã trọc phú ngồi mát ăn bát vàng.
Chỉ đến gần đây khi chính thể Việt Nam không giấu nổi nỗi thèm muốn Hiệp định TPP và bắt buộc phải dần chấp nhận định chế Công đoàn độc lập trong TPP, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam mới có chút hơi hướng thay đổi. Tuy nhiên cho đến giờ, tổ chức này vẫn hầu như chưa từ bỏ ý muốn tự nguyện là “cánh tay nối dài của đảng”.
Hầu như tương tự, một tổ chức chính trị – xã hội khác là Hội Nông dân Việt Nam đã không hề lên tiếng trước cảnh nạn hàng triệu nông dân bị mất đất, bị cướp đất và chịu rủi ro về những bất công đất đai. Trong bối cảnh nạn trưng thu đất đai quá bất công vọt lên từ 10-20 lần, thậm chí hàng trăm lần giữa giá bán lẻ ra thị trường và giá bồi thường mỗi mét vuông đất cho nông dân, Hội Nông dân Việt Nam đã trở thành một trong những tổ chức chính trị – xã hội “khiếm thính” và “khiếm thị” nhất, bất chấp không khí tang tóc của lớp nông dân bị bần cùng hóa tuyệt đối đè nặng trên mọi vùng đất nước.
Thời gian tiến về trước nhưng lịch sử cứ bị kéo lui. Cũng trong cuộc bầu cử Quốc hội vừa kể, thậm chí tỷ lệ người ngoài đảng đã rớt xuống chỉ còn khoảng 4%, so với “10% theo tiêu chí”. Nghịch lý quá bất nhẫn là trong khi kinh phí dành cho Mặt trận Tổ quốc Việt Nam tăng gấp đôi so với những năm trước, số người tự ứng cử lọt vào Quốc hội lại giảm đi phân nửa so với những kỳ bầu cử Quốc hội trước đó. Nhưng ngay cả những người “trúng cử” cũng bị dư luận coi là “gà” của các cơ quan chính quyền và hội đoàn nhà nước.
Một bằng chứng sống sượng khác: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã hầu như không chia sẻ với bất kỳ tổ chức và nhân vật tôn giáo nào khác thể hiện tiếng nói và hành dộng khác với chủ ý độc trị của đảng cầm quyền. Thậm chí ngược lại, giới lãnh đạo của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam đã tự nguyện biến thành cánh tay đắc lực giúp cho đảng bóp nghẹt hơn quyền tự do tôn giáo của người dân – được hiến định qua các hiến pháp nhưng còn lâu mới được khẳng định trong một văn bản luật về tôn giáo.
Trong khi đó, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng trở nên vô tích sự và phản cảm không kém. Từ khi có luật Lao động, tổ chức này đã chưa hề chủ động tổ chức một cuộc đình công hoặc lãn công nào cho công nhân, bất chấp vô số khó khăn và bất công trùm phủ lên đầu lớp công nhân vừa nghèo vừa đói cùng hàng ngàn cuộc đình công tự phát của công nhân nổ ra hàng năm.
Không những không hỗ trợ công nhân, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam lại nối thêm một cánh tay giúp công an ngăn chặn đình công. Trong một số trường hợp, công nhân còn phát hiện chính cán bộ công đoàn làm công tác chỉ điểm để “khoanh vùng đối tượng” và sau đó là bắt bớ tống giam những công nhân khởi xướng đình công.
Từ rất nhiều năm qua, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cũng đương nhiên trở thành một khâu trung gian hưởng ít nhất 2% trên tổng quỹ lương doanh nghiệp. Số tiền không nhỏ này, cộng với khoản ngân sách mập mạp hàng năm, đã biến Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam thành một gã trọc phú ngồi mát ăn bát vàng.
Chỉ đến gần đây khi chính thể Việt Nam không giấu nổi nỗi thèm muốn Hiệp định TPP và bắt buộc phải dần chấp nhận định chế Công đoàn độc lập trong TPP, Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam mới có chút hơi hướng thay đổi. Tuy nhiên cho đến giờ, tổ chức này vẫn hầu như chưa từ bỏ ý muốn tự nguyện là “cánh tay nối dài của đảng”.
Hầu như tương tự, một tổ chức chính trị – xã hội khác là Hội Nông dân Việt Nam đã không hề lên tiếng trước cảnh nạn hàng triệu nông dân bị mất đất, bị cướp đất và chịu rủi ro về những bất công đất đai. Trong bối cảnh nạn trưng thu đất đai quá bất công vọt lên từ 10-20 lần, thậm chí hàng trăm lần giữa giá bán lẻ ra thị trường và giá bồi thường mỗi mét vuông đất cho nông dân, Hội Nông dân Việt Nam đã trở thành một trong những tổ chức chính trị – xã hội “khiếm thính” và “khiếm thị” nhất, bất chấp không khí tang tóc của lớp nông dân bị bần cùng hóa tuyệt đối đè nặng trên mọi vùng đất nước.
Còn với Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh và Hội Liên hiệp Phụ
nữ Việt Nam, hai tổ chức này chỉ chuyên chú tổ chức công tác “vận động” những
người mang tinh thần phản kháng Trung Quốc không đi biểu tình với lý do “đã có
đảng và nhà nước lo”. Thậm chí, một số cán bộ đoàn – được dư luận xã hội nhận
dạng – còn trở thành những nhân viên công an không sắc phục khi theo dõi, tiếp
tay cho công an bắt bớ người dân yêu nước…
Tự nhiên rút ngắn
Một trong những nguồn lực lớn nhất mà các tổ chức quần chúng công
sử dụng là các khoản chi cho nguồn nhân lực. Theo Tổng cục Thống kê, vào năm
2012 Việt Nam có 246.144 người làm việc cho 34.378 cơ sở của tổ chức chính
trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước đãi ngộ theo chế độ.
Số cán bộ, công chức làm việc cho các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước trả lương chiếm 7,2% nhân lực làm việc cho nhà nước và 1,1% tổng lực lượng lao động xã hội. Nếu tính cả số cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường, thôn, xóm (hoạt động trong các tổ chức quần chúng công cấp cơ sở), tổng số người hoạt động trong lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế) ước tính vào khoảng 337.981 người.
Tổ chức VEPR đã tính toán với ước tính trung bình: tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công là 52.688,91 tỷ đồng, và ước tính thấp là 45.670,59 tỷ đồng. Với ước tính “lạc quan”, tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công năm 2014 ước bằng 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương 71.151,40 tỷ đồng.
Thế nhưng tình hình kinh tế hiện thời có lẽ đang ứng vào “ước tính thấp” của VEPR. Ngân sách khốn quẫn đang bị siết lại nhanh chóng và bầu sữa dành cho các tổ chức chính trị – xã hội cũng cạn kiệt nhanh không kém. Nghe nói một số nơi đã phải xài đến “quỹ đen”.
Bây giờ thì chẳng cần đến dư luận kêu gào, những cánh tay nối dài ấy vẫn tự nhiên bị rút ngắn.
Vậy họ – những cánh tay của đảng và vì đảng ấy – sẽ làm gì nếu “thất nghiệp”?
Trở về với nhân dân chăng?
Nhưng “nhân dân” nào?
Số cán bộ, công chức làm việc cho các tổ chức chính trị, đoàn thể, xã hội được nhà nước trả lương chiếm 7,2% nhân lực làm việc cho nhà nước và 1,1% tổng lực lượng lao động xã hội. Nếu tính cả số cán bộ không chuyên trách ở cấp xã, phường, thôn, xóm (hoạt động trong các tổ chức quần chúng công cấp cơ sở), tổng số người hoạt động trong lĩnh vực tổ chức quần chúng công (có biên chế và không có biên chế) ước tính vào khoảng 337.981 người.
Tổ chức VEPR đã tính toán với ước tính trung bình: tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công là 52.688,91 tỷ đồng, và ước tính thấp là 45.670,59 tỷ đồng. Với ước tính “lạc quan”, tổng chi phí kinh tế của xã hội cho các tổ chức quần chúng công năm 2014 ước bằng 1,7% GDP của cả nước, tức là tương đương 71.151,40 tỷ đồng.
Thế nhưng tình hình kinh tế hiện thời có lẽ đang ứng vào “ước tính thấp” của VEPR. Ngân sách khốn quẫn đang bị siết lại nhanh chóng và bầu sữa dành cho các tổ chức chính trị – xã hội cũng cạn kiệt nhanh không kém. Nghe nói một số nơi đã phải xài đến “quỹ đen”.
Bây giờ thì chẳng cần đến dư luận kêu gào, những cánh tay nối dài ấy vẫn tự nhiên bị rút ngắn.
Vậy họ – những cánh tay của đảng và vì đảng ấy – sẽ làm gì nếu “thất nghiệp”?
Trở về với nhân dân chăng?
Nhưng “nhân dân” nào?
Phạm Chí Dũng
__._,_.___