Nhật Bản: Hoạt động hung
hăng của TQ trên biển đe dọa an ninh quốc gia
21.07.2015
Nhật Bản nói các
hoạt động hung hăng của Trung Quốc trong Biển Hoa Đông là một trong những mối
đe dọa chính đối với nền an ninh quốc gia, giữa lúc Thủ tướng Shinzo Abe hối
thúc thông qua một loạt các biện pháp gây nhiều tranh cãi nhằm nới rộng vai trò
của quân đội Nhật Bản.
Trong báo cáo
duyệt xét quốc phòng thường niên công bố hôm thứ Ba, Bộ Quốc phòng Nhật Bản
mạnh mẽ đả kích việc Bắc Kinh khai thác các mỏ dầu hỏa và khí đốt dưới biển Hoa
Đông, cũng như sự hiện diện quân sự ngày càng tăng của Trung Quốc gần một loạt
các đảo đang nằm dưới quyền kiểm soát của Nhật Bản mà Trung Quốc cũng tuyên bố
chủ quyền.
Phúc trình này lên
án các hoạt động của Trung Quốc tại Biển Đông giàu tài nguyên, nơi mà Trung
Quốc đã khởi sự xây nhiều đảo nhân tạo, một động thái đã làm leo thang các căng
thẳng giữa Bắc Kinh và một số nước láng giềng vùng Đông Á.
Phúc trình này kết
luận: “Đặc biệt về các vấn đề tranh chấp biển đảo, Trung Quốc tiếp tục hành
động một cách hung hăng, kể cả các mưu toan cưỡng bức để thay đổi nguyên trạng
và Bắc Kinh cũng đang sẵn sàng để thực hiện các đòi hỏi đơn phương của mình một
cách không tương nhượng”.
Bộ Quốc phòng Nhật
Bản cũng xác định chương trình hạt nhân của Bắc Triều Tiên là một mối đe dọa
khác cho nền an ninh Nhật Bản.
Việt Nam và Mỹ
Nguyễn Hưng Quốc
20.07.2015
Theo dõi báo chí trong
nước từ sau chuyến đi Mỹ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng vào đầu tháng 7 vừa
rồi, chúng ta dễ dàng ghi nhận hai sự kiện chính: Một, khác hẳn với trước đây,
bây giờ người ta công khai công kích âm mưu xâm lấn của Trung Quốc trên Biển
Đông, tố cáo những hành động cướp cá hay đâm chìm tàu của ngư dân Việt Nam trên
vùng biển gần Hoàng Sa, bày tỏ sự đồng tình với việc Philippines kiện Trung
Quốc lên toà án Liên Hiệp Quốc, tổ chức các buổi tưởng niệm tử sĩ và nạn nhân
trong cuộc chiến tranh biên giới năm 1989. Hai, thể hiện sự vui mừng trước sự
phát triển tốt đẹp của quan hệ Việt-Mỹ và tin tưởng vào chiến lược tái cân bằng
ở châu Á - Thái Bình Dương của Mỹ.
Hai sự kiện ấy cho thấy
một sự biến chuyển quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Trước,
họ, một mặt, né tránh nêu đích danh Trung Quốc như một kẻ bành trướng ngang
ngược, hoặc nếu có, cũng chỉ đề cập một cách hết sức nhẹ nhàng, không kèm theo
một sự phê phán nào cả; mặt khác, ít khi nhắc đến Mỹ, hoặc nếu nhắc, chỉ nhắc
một cách bâng quơ, đặc biệt về chiếc lược xoay trục sang châu Á - Thái Bình
Dương của Mỹ.
Bây giờ, mọi sự khác hẳn.
Dấu mốc của sự thay đổi
ấy chắc chắn đến từ chuyến đi Mỹ của Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng. Nhưng thật
ra, chuyến thăm viếng ấy không đánh dấu một sự đột biến nào. Trừ bản thoả thuận
về tầm nhìn chung giữa hai nước, không có hiệp ước quan trọng nào được ký kết.
Nội dung của bản thoả thuận về tầm nhìn chung cũng không có gì mới mẻ: Tất cả
đã được nêu lên trong một số cuộc gặp gỡ trước đó. Quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ
vẫn dừng lại ở tầm “đối tác toàn diện” vốn đã được chính thức hoá từ chuyến
viếng thăm Mỹ của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang vào năm 2013. Quan hệ ấy chưa
được nâng lên tầm “đối tác chiến lược”, điều có lẽ Việt Nam rất mong muốn, ít
nhất trong thời điểm hiện nay, khi Việt Nam cần một chỗ dựa vững chắc trong thế
trận đối đầu với Trung Quốc trên Biển Đông.
Rõ ràng là quan hệ giữa
Việt Nam và Mỹ tiến triển khá chậm và có lúc, khá khúc khuỷu. Người đầu tiên
thúc đẩy quá trình hợp tác giữa hai nước là Mỹ chứ không phải là Việt Nam.
Trong chuyến viếng thăm Việt Nam vào giữa năm 2010, Bộ trưởng Ngoại giao
Hillary Clinton đã đề nghị thiết lập quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước
nhưng Việt Nam làm ngơ. Trước đó, trong bản tường trình mỗi bốn năm Quadrennial
Defense Review của Bộ Quốc phòng Mỹ cũng đã nêu lên sáng kiến xây dựng quan hệ
chiến lược với Việt Nam. Tháng Bảy năm 2012, Mỹ mời Nguyễn Phú Trọng sang thăm
Mỹ nhưng Nguyễn Phú Trọng lưỡng lự, không đáp ứng ngay. Trong khi đó, Việt Nam
lại tìm kiếm quan hệ đối tác chiến lược với các quốc gia khác, trong đó, có Úc
nhưng bị Úc từ chối hai lần: lần đầu, vào năm 2009 khi Kevin Rudd làm Thủ tướng
và lần sau, năm 2015, khi Tony Abbott làm Thủ tướng. Lý do từ chối ở cả hai lần
là vì, dưới mắt của Úc, quan hệ đối tác chiến lược ấy chỉ
có tính chất tượng trưng chứ chưa thể có thực chất vì thiếu những sự tin cậy
cần thiết giữa hai bên.
Thái độ của Việt Nam đối
với Mỹ chỉ thay đổi một cách rõ rệt nhất là sau vụ Trung Quốc mang giàn khoan
HD-981 đến thăm dò dầu khí trong thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, và đặc biệt, từ khi Trung Quốc ra sức bồi đắp các bãi đá thành đảo
nhân tạo ở Trường Sa. Sau hai sự kiện ấy, các chuyến thăm giữa hai nước được tổ
chức dồn dập, hết phái đoàn này đến phái đoàn khác đến thăm, gặp gỡ và bàn luận
với nhau. Chuyến đi Mỹ của Nguyễn Phú Trọng là đỉnh điểm của các cuộc hội đàm
ấy. Tuy nhiên, sau chuyến thăm của Nguyễn Phú Trọng, có hai điều vẫn chưa xảy
ra: Một, quan hệ giữa hai nước vẫn chưa được nâng cấp lên thành đối tác chiến
lược; và hai, Mỹ vẫn chưa giở bỏ hẳn lệnh cấm vận các loại vũ khí sát thương
cho Việt Nam. Hai sự kiện ấy cho thấy vẫn còn sự e dè từ phía Mỹ.
Tại sao có sự e dè ấy?
Theo tôi, có hai lý do
chính:
Thứ nhất là tình trạng
nhân quyền của Việt Nam. Mỹ không đòi hỏi thay đổi chế độ tại Việt Nam nhưng họ
vẫn thường xuyên lên án các hành động vi phạm nhân quyền trầm trọng tại Việt
Nam và vẫn yêu sách Việt Nam phải thả các tù nhân lương tâm vẫn còn bị giam giữ
khá nhiều tại Việt Nam.
Thứ hai có lẽ Mỹ cũng
chưa tin tưởng hẳn vào quyết tâm của Việt Nam trong nỗ lực chống lại âm mưu
bành trướng của Trung Quốc trên Biển Đông. Ai cũng biết giới lãnh đạo Việt Nam
chia làm hai phe: phe thân Tàu và phe thân Tây phương. Người ta đoán là sau vụ
giàn khoan HD-981, phe thân Tây phương càng lúc càng thắng thế. Tuy nhiên, tất
cả vẫn là suy đoán. Không ai biết chắc chắn mức độ của sự thắng thế ấy và cũng
khó biết những toan tính thực sự trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Đặc
biệt, người ta lại càng không biết những ai sẽ trở thành những nhà lãnh đạo cao
nhất tại Việt Nam sau kỳ đại hội đảng vào đầu năm tới.
Tôi nghĩ quan hệ giữa
Việt Nam và Mỹ sẽ rõ ràng hơn sau kỳ đại hội sắp tới của đảng Cộng sản Việt
Nam. Trong lúc này, từ giới chính khách đến giới truyền thông, mọi người chỉ
biết “chờ và xem”.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment