Audio Youtube
Chủ Nhật May 24, 2015
Chủ Đề:
Hoàng Sa Trường Sa Theo Công Pháp Quốc Tế
Về Luật Biển 1982 Của Liên Hiệp Quốc
Diễn
Giả: LS Nguyễn Hữu Thống
ĐÔNG HÒA PHI MÃ
VĂN THƯ GỬI TỔNG THỐNG PHI LUẬT TÂN BENIGNO
AQUINO
Ngày 14-7-1995, nhân kỳ Đại Hội ASEAN tại Brunei, nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, người viết đã gửi văn thư đến 7 vị nguyên thủ quốc gia trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á là Phi Luật Tân,, Mã Lai, Brunei, Nam Dương, Tân Gia Ba, Thái Lan và Việt Nam. Để trình bầy vấn đề giải quyết các vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á theo những quy luật dự liệu trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển 1982.
Theo các cơ quan truyền thông quốc tế, văn thư này đưa ra giải pháp cho vấn đề tranh chấp giữa Việt Nam và Trung Quốc. Bằng cách dùng phương thức Thương Nghị để đi đến Hòa Bình. (The Discussion Proceeds for Peace: Asian Wall Street Journal, July 1995).
Ngày 31-5-2012, nhân vụ tranh chấp giữa Phi Luật Tân và Trung Quốc tại Scarborough Shoal, thay mặt Ủy Ban Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền, người viết đã gửi văn thư đến Tổng Thống Phi Luật Tân Benigno Aquino để trình bầy về những khía cạnh pháp lý liên quan đến vụ Bãi Cạn Scarborough cũng như toàn vùng Biển Đông Nam Á nơi tọa lạc các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Sau đây là nguyên văn bức thư nói trên:
Kính thưa Tổng
Thống,
Ngày 14-7-1995,
nhân danh Hội Luật Gia Việt Nam tại California, chúng tôi đã gửi văn thư đến Tổng
Thống Fidel Ramos để yêu cầu đưa vụ tranh chấp tại Biển Đông Nam Á ra trước Tòa
Án Quốc Tế Về Luật Biển. Ngày nay, với vụ tranh chấp Bãi Cạn Scarborough tọa lạc
tại Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa Phi Luật Tân, chúng tôi xin trình bầy
với Tổng Thống vấn đề liên quan đến các hải đảo và vùng biển Trường Sa.
Tháng 4-1956, khi
Hải Quân Pháp rút khỏi Việt Nam sau Hiệp Định Geneva 1954, Trung Quốc chiếm
7 đảo Hoàng Sa của Việt Nam phía đông bắc.
Tháng 1-1974, khi
Quân Lực Hoa Kỳ rút khỏi Việt Nam sau Hiệp Định Paris 1973 Trung Quốc chiếm nốt
6 đảo Hoàng Sa phía tây nam.
Tháng 3-1988, khi
Liên Xô tài giảm viện trợ cho Việt Nam, Trung Quốc chiếm 7 đá bãi Trường Sa như:
Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef), Đá Gaven và Đá Johnson.
Tháng 8-1990, Thủ
Tướng Trung Quốc Lý Bằng (Li Peng) đưa ra đề nghị khai thác chung (về đánh cá
và khai thác dầu khí) tại toàn vùng Biển Đông Nam Á với điều kiện tiên quyết là
các quốc gia Đông Nam Á phải thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc tại vùng biển
này.
Tháng 2-1992, Trung
Quốc ban hành Luật Quốc Gia về Biển và khẳng định rằng tất cả các hải đảo tại
Biển Nam Hoa từ xưa vẫn thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc. Họ coi đó là một
vấn đề “bất khả tranh nghị”. Căn cứ vào Luật Quốc Nội, Trung Quốc chiếm một
vùng biển tại Bãi Tứ Chính (Vanguard Bank) mà họ gọi là Wanan Bei (Vạn An Bắc)
để tự tiện nhượng quyền khai thác dầu khí cho hãng Creston. Bãi biển này nằm
trong Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa Việt Nam cách Biển Lãnh Thổ
Việt Nam 190 hải lý (Territorial Sea).
Ngoài ra Bắc Kinh
còn khẳng định rằng “các hải đảo Hoàng Sa và Trường Sa mà họ gọi là Tây Sa và
Nam Sa có quyền được hưởng quy chế Vùng Đặc Quyền Kinh Tế (đánh cá) kể cả Vùng
Đáy Biển (Seabed)” (để khai thác dầu khí).
Điều này đi ngược
lại Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển trong Điều 121:
“Những đảo, cồn
đá, bãi không có thường dân cư ngụ và không thể tự túc về kinh tế không được hưởng
quy chế Vùng Đặc Quyền Kinh Tế và Thềm Lục Địa”. Những tiểu đảo này chỉ được hưởng
quy chế 12 hải lý Biển Lãnh Thổ.
Năm 1995, Trung
Quốc lấn chiếm một số đảo, cồn, đá, bãi tọa lạc tại Thềm Lục Địa Phi Luật Tân
như Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal và Jackson Bank. Hành động này
đe dọa an ninh toàn vùng Đông Nam Á và cản trở sự Tự Do Hàng Hải tại miền thế
giới này.
“Lưỡi Bò Hình Chữ
U theo Đường 9 Đoạn” mà Bắc Kinh gọi là “Biển Lịch Sử Trung Quốc” chiếm 80% Biển
Đông Nam Á, phía đông giáp Phi Luật Tân, phía tây giáp Việt Nam và phía nam
giáp Mã Lai, điểm xa nhất cách Hoa Lục 1,100 hải lý (2,000 cây số). Hành
động như vậy Trung Quốc coi Biển Đông Nam Á là Nội Hải (Internal Waters). Cũng
như Đế Quốc La mã trong Thế Kỷ Thứ Nhất gọi Địa Trung Hải là “Biển Của Chúng
Tôi” (Mare Nostrum/ Our Sea).
Chiếu Điều 57 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có đặc quyền đánh cá tại
Vùng Đặc Quyền Kinh Tế 200 hải lý tính từ Biển Lãnh Thổ ra khơi.
Chiếu Điều 76 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có đặc quyền thăm dò và
khai thác dầu khí tại Thềm Lục Địa 200 hải lý, hay rộng hơn, nếu về mặt địa chất,
Thềm Lục Địa là sự tiếp nối tự nhiên của Nền Lục Địa (Continental Margin) từ đất
liền kéo dài ra ngoài biển.
Về mặt pháp lý
các quốc gia duyên hải đã ký kết hay tham gia Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật
Biển đương nhiên được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Pháp Lý 200 hải lý tính từ Biển
Lãnh Thổ ra khơi.
Chiếu Điều 77 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển các quốc gia duyên hải có chủ quyền tuyệt đối tại
thềm lục địa để thăm dò và khai thác những tài nguyên thiên nhiên. Đây là đặc
quyền chuyên hữu theo đó không ai có quyền thăm dò và khai thác dầu khí nếu
không có sự ưng thuận minh thị của quốc gia duyên hải. Đặc quyền này
không tùy thuộc vào điều kiện phải có sự chiếm cứ hay công bố minh thị của quốc
gia duyên hải.
Điều 81 Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển một lần nữa xác nhận chủ quyền tuyệt đối và đặc quyền
chuyên hữu của quốc gia duyên hải trong việc tự mình đứng ra thăm dò và khai
thác dầu khí, hay ký khế ước cộng tác với các quốc gia đệ tam về những dịch vụ
này.
Chiếu Điều 88 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển“các Vùng Biển Khơi (High Seas) chỉ được sử dụng
trong những mục tiêu hòa bình”.
Chiếu Điều 89 Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển “các quốc gia duyên hải không được xâm chiếm
Vùng Biển Khơi (High Seas), và không được coi đó là lãnh thổ thuộc chủ quyền của
họ”.
Như vậy tại Biển
Đông Nam Á Trung Quốc không có quyền đòi Vùng Biển Khơi ngoài hải phận luật định
212 hải lý của họ (gồm 12 hải lý Biển Lãnh Thổ, và 200 hải lý Vùng Đặc Quyền
Kinh Tế hay Thềm Lục Địa Pháp Lý).
Ngoài ra, tại
Biển Đông Nam Á, Trung Quốc không được hưởng quy chế Thềm Lục Địa Địa Chất
(Geological Continental Shelf) còn gọi là Thềm Lục Địa Mở Rộng quá 200 hải lý
(Extended Continental Shelf).
Vì tại Biển Đông
Nam Á, trên kinh tuyến 112 có một rãnh biển sâu tới 2600 mét tại vỹ tuyến 18
(phía nam Đảo Hải Nam), và một rãnh biển khác tại vỹ tuyến 12 sâu tới 4500 mét.
Như vậy đáy biển
Trung Hoa không phải là sự tiếp nối tự nhiên của nền lục địa từ đất liền kéo
dài ra ngoài biển. Trong trường hợp này, chiếu Điều 76 Khoản 4 và 6, Trung Hoa
không có thềm lục địa địa chất hay thềm lục địa mở rộng quá 200 hải lý.
Bãi Cạn Scarborough
Shoal của Phi Luật Tân cách Đảo Hải Nam 560 hải lý, và Bãi Tứ Chính (Vanguard
Bank) của Việt Nam cách Đảo Hải Nam 780 hải lý, là những Vùng Biển Khơi của
Trung Quốc (High Seas) nên không thuộc chủ quyền lãnh thổ của Trung Quốc chiếu
Điều 89 Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Chiếu nguyên tắc
“Các Hiệp Ước Quốc Tế Phải Được Tôn Trọng”, Điều 26 Công Ước Vienna về Luật Hiệp
Ước (1969) quy định như sau: “Các Hiệp Ước có hiệu lực chấp hành buộc các quốc
gia kết ước phải ngay tình thi hành hiệp ước”. Ủy Ban Liên Hiệp Quốc về Luật Quốc
Tế coi đó là “một nguyên tắc căn bản về Luật Hiệp Ước, có lẽ là nguyên tắc quan
trọng nhất trong Công Pháp Quốc Tế”.
Chiếu nguyên tắc
về “Giá Trị Thượng Tôn của Luật Quốc Tế đối với Luật Quốc Nội”, các quốc gia kết
ước phải thực sự thi hành những quyền hạn và nghĩa vụ trong các hiệp ước và
công ước quốc tế. Họ không thể viện dẫn Luật Quốc Nội để khước từ thi hành
nghĩa vụ của họ trong các hiệp ước và công ước quốc tế mà họ đã ký kết hay tham
gia.
Đó chính là trường
hợp của Trung Quốc. Sau khi ký Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển năm 1982,
10 năm sau, năm 1992, Trung Quốc ban hành Luật Quốc Nội Về Biển (Domestic Law
of the Sea) để xâm phạm chủ quyền lãnh thổ tại các Thềm Lục Địa Việt Nam và Phi
Luật Tân, cũng như tại các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.
Những vi phạm Công
Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển phải được đệ trình Tòa Án Quốc Tế (The Hague)
hay các Tòa Án Luật Biển thiết lập trong Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển.
Muốn giải quyết những
mâu thuẫn và tranh chấp về thềm lục địa, hải phận hay hải đảo, các quốc gia
đương tụng phải trước hết tuân hành những phương thức ôn hòa như điều đình, hòa
giải, thương nghị hay trọng tài.
Ngoài ra Tòa Án
Quốc Tế cũng có thẩm quyền giải thích và áp dụng những điều khoản của Công Ước
Liên Hiệp Quốc về Luật Biển có hiệu lực chấp hành từ năm 1994.
Sự giải quyết tranh
chấp bằng những phương pháp ôn hòa như hòa giải, thương nghị, trọng tài hay tố
tụng sẽ giúp Đông Nam Á khỏi biến thành một vùng tranh chấp thường xuyên như
Trung Đông (Tây Á). Với việc sử dụng luật pháp (Pháp Trị) thay thế việc dùng võ
lực (phi pháp), Đông Nam Á sẽ có cơ may được hưởng một kỷ nguyên hòa bình, ổn định,
hợp tác và phồn thịnh.
Nhân dịp này chúng
tôi thỉnh cầu các Quốc Gia Hội Viên trong Hiệp Hội các Quốc Gia Đông Nam Á ra
quyết nghị đổi danh xưng Biển Nam Hoa thành Biển Đông Nam Á.
Danh xưng Nam Hải
chỉ áp dụng cho Trung Quốc. Đối với Việt Nam nó có tên là Việt Nam Đông Hải. Đối
với Mã Lai nó là Bắc Hải. Mới đây Chính Phủ Phi Luật Tân đã dùng danh xưng Biển
Tây của Phi Luật Tân. Đó cũng là đề nghị của Hội Luật Gia Việt Nam tại California
trong Văn Thư gửi Tổng Thống Fidel Ramos ngày 14-7-1995.
Hơn nữa danh xưng
Biển Nam Hoa thường bị ngộ nhận và giải thích xuyên tạc là biển của nước Trung
Hoa về phía Nam.
Hãy trả Caesar
những gì của Caesar
Và trả Biển Đông
Nam Á cho các Quốc Gia Đông Nam Á
Chúng tôi xin cám
ơn sự quan tâm của Tổng Thống về vấn đề này.
Kính thư
Thay mặt Ủy Ban
Luật Gia Bảo Vệ Dân Quyền
Luật Sư Nguyễn Hữu
Thống
Văn Thư này đã được thông tri đến Ngoại
Trưởng Hoa Kỳ Hillary Rodham Clinton, Thủ Tướng Mã Lai Abdullah Ahmad Badawi và
Thủ Tướng Anh David Cameron.Hiện nay cả Mã Lai, Ấn Độ vá Úc Đại Lợi đã đứng vào chiến tuyến Bắc Cự Bá Quyền.
Nguyên
Bản Anh Ngữ
Nguyen Huu Thong,
Esq.
President
Lawyers Committee
for People’s Rights
May 31, 2012
President Benigno
S. Aquino III
C/o Philippine
Consulate General
447 Sutter Street,
Sixth Floor
San Francisco, CA
94108
Dear
Mr. President:
On
July 14, 1995, on behalf of the California Vietnamese Lawyers Association,
Inc., I sent President Fidel Ramos of the Philippines a letter to urge him to
submit the matter of the Southeast Asian Sea conflict to the International
Tribunal for the Law of the Sea. Today with the recent event at Scarborough
Shoal located in the Philippine exclusive economic zone and continental shelf, I
would like to submit for your consideration the Spratly islands and maritime
zone dispute.
In
April 1956, when the French Navy withdrew from Vietnam after the conclusion of
the Geneva Accords of 1954, China seized seven Paracel islands.
The
remaining six islands were subsequently seized in January 1974 following the
American pullout from Vietnam pursuant to the Paris Peace Treaty of 1973.
In
March 1988, when the Soviets reduced their support to Vietnam, China seized
seven islands in the Sparkly including the Fiery Cross Reef, the Gaven Reef and
the Johnson Reef.
In
August 1990, Chinese Prime Minister Li Peng offered to develop the whole region
jointly with the Southeast Asian countries. However, China meant joint
development of the entire South China Sea only after its sovereignty over the
whole maritime area had been recognized.
In
February 1992, China promulgated “The Law of the People’s Republic of China on
Its Territorial Waters and Their Contiguous Areas”. China used to assert that
“the islands of the South China Sea have always been Chinese territory and
China has indisputable sovereignty over them.” For that reason China
seized at Vanguard Bank a tract called Wanan-Bei that China awarded to Crestone.
That tract lies on Vietnam’s Exclusive Economic Zone 190 nautical miles from
its territorial sea.
Furthermore,
China stated that “the Paracel and Spratly islands have their own territorial
waters or exclusive economic zones that would give China access to the seabed”.
This allegation goes against Article 121 of the United Nations Convention on
the Law of the Sea: “Rocks which cannot sustain human habitation or economic
life of their own shall have no exclusive economic zone or continental shelf.”
They have only a 12 nautical mile-territorial sea. This disposition should
apply to all of the Paracel and Spratly islands.
In
1995, the incidents at Mischief Reef, Half Moon Shoal, Sabina Shoal and Jackson
Bank on the Philippine continental shelf have threatened the security of the
area and the freedom of navigation in the Southeast Asian Sea.
The
"U Shaped" area of Nan Hai (South Sea) usually known as “the nine
dashed line” or “Cow Tongue" claimed by China as its “historic
waters" encompasses 80% of the Southeast Asian Sea, eastward to the
Philippines, westward to Vietnam and southward to Malaysia, the farthest spot
having a distance of 1,100 nautical miles from China. By doing so, China has
considered the South China Sea as its "internal waters", the same way
that the Roman Empire called the Mediterranean Sea "Mare Nostrum"
(Our Sea).
By
international law, pursuant to Article 57 of the United Nations Convention on
the Law of the Sea (LOS Convention), all coastal States have been granted
exclusive fishing rights in their exclusive economic zones extending 200
nautical miles from their territorial seas.
Article
76 of the LOS Convention gives coastal states exclusive rights to drill for oil
and gas in their continental shelves which comprise the seabed and subsoil of
the submarine areas that extend throughout the natural prolongation of its land
territory to the outer edge of the continental margin, or to a distance of 200
nautical miles from the territorial sea.
Article
77 of the LOS Convention gives sovereign and exclusive rights to the coastal
States over the continental shelf:
The
coastal State exercises over the continental shelf sovereign rights for the
purpose of exploring it and exploiting its natural resources.
These
rights are exclusive in the sense that if the coastal State does not explore
the continental shelf or exploit its natural resources, no one may undertake
these activities without the express consent of the coastal State.
The
rights of the coastal State over the continental shelf do not depend on
occupation, effective or notional, or on any express proclamation.
Concerning
the drilling on the continental shelf, Article 81 of the LOS Convention
provides that “the coastal State shall have the exclusive right to authorize
and regulate drilling on the continental shelf for all purposes”.
Pursuant
to Articles 88 and 89 of the LOS Convention “the high seas shall be reserved
for peaceful purposes. No State may validly purport to subject any part of the
high seas to its sovereignty”. Therefore, China could not claim its sovereignty
over the high seas or the open waters of sea beyond the limits of its zone of
national jurisdiction with its 12 nautical mile-territorial sea and 200
nautical mile- exclusive economic zone or legal continental shelf. In the
Southeast Asian Sea (South China Sea) China does not have any geological
continental shelf extending beyond 200 nautical miles.
Scarborough
Shoal of the Philippines and Vanguard Bank of Vietnam, both located over six
hundred nautical miles from China, are its high seas.
The
Rule Pacta Sunt Servanda applies for the observance of treaties.
Article
26 of the Vienna Convention on the Law of Treaties (1969) declares that “every
treaty in force is binding upon the parties to it and must be performed by them
in good faith”. The United Nations International Law Commission in its
commentaries to this rule characterized it as a “fundamental principle of the
law of treaties, perhaps the most important principle of international law”.
According
to the Rule of Supremacy of International Law the rights and obligations
which a state has by international law are, from the international standpoint,
superior to any rights or duties it may have under its domestic law.
Article 27 of the Vienna Convention provides that “a party may not invoke the
provisions of its internal law as justification for its failure to perform a
treaty”. That failure to perform would constitute a breach of the international
law requesting remedies with provisional measures in case the urgency of the
situation required it.
Therefore,
China should not invoke its domestic Law of the Sea of 1992 to encroach upon
the Vietnamese, Philippine and Malaysian Continental Shelves and the whole Spratly
and Parcel archipelagoes. These violations of the Law of the Sea should be
submitted to the International Court of Justice (ICJ) or the International
Tribunal for the Law of the Sea (ITLOS) for the resolution of disputes in case
the parties do not reach an agreement by negotiation and conciliation. The
International Court /Tribunal has jurisdiction over the matters relating to the
interpretation or application of the LOS Convention.
The
settlement of these disputes by peaceful means such as negotiations,
arbitrations and judicial proceeds would keep Southeast Asia from becoming
another Middle East. With the Rule of Law taking the place of the use of force,
Southeast Asia may soon experience a period of peace, stability, cooperation and
prosperity.
I
would like to seize this opportunity to propose that you change the name South
China Sea to Southeast Asian Sea. The appellation of South Sea (Nan Hai)
is good only for China; the Vietnam East Sea (Vietnam Dong Hai) applies to
Vietnam. For Malaysia it should be called Malaysia North Sea. The
Philippines have adopted the correct name of Philippines West Sea in accord
with the suggestions in my letter of July 14, 1995 to President Fidel Ramos.
Moreover,
the name South China Sea could be interpreted erroneously as the Sea of China
in the South.
Let
us give to Caesar what belongs to Caesar, and give Southeast Asian Sea to the
Southeast Asian countries.
Thank
you for your attention to this matter.
Yours
sincerely,
For the Lawyers
Committee For People’s Rights
NGUYEN HUU THONG,
President
No comments:
Post a Comment