Sự thật về
nhiệm vụ tuần tra vì tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông
Công trình Trung Quốc đang xây dựng trên Đá Châu Viên (Cuarteron
Reef) ở quần đảo Trường Sa (Biển Đông).@epa
Trong những tháng gần đây, Trung Quốc đã ngang nhiên phá vỡ nguyên
trạng Biển Đông, biến bãi ngầm và rạn san hô thành đảo nhân tạo, với ý đồ quân
sự hóa khu vực, mà hệ quả sẽ là hạn chế quyền tự do qua lại của tàu thuyền và
máy bay nước khác. Trước tình hình đó, chính quyền Mỹ đã nhiều lần lên tiếng đe
dọa là sẽ cho hải quân thâm nhập vào bên trong vùng 12 hải lý của các đảo nhân
tạo để cho thấy là Washington không chấp nhận các hành vi của Bắc Kinh.
Theo báo mạng The Diplomat của Nhật Bản, các tuyên bố trên đây của
Mỹ tuy nhiên đã bị hiểu sai là Mỹ muốn bác bỏ yêu sách chủ quyền của Trung Quốc
trong lúc thực ra là Hoa Kỳ chỉ chủ trương khẳng định quyền tự do hàng hải chính
đáng của Mỹ chứ không muốn đi ngược lại nguyên tắc luôn tuyên bố là không thiên
vị bên nào trong tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông.
Vấn đề được nhà báo Shannon Tiezzi nêu bật trong bài phân tích «
Sự thật về nhiệm vụ tuần tra vì tự do hàng hải của Mỹ ở Biển Đông (The Truth
About US Freedom of Navigation Patrols in the South China Sea) », công
bố ngày 22/09/2015, là việc cho tàu tiến vào bên trong vùng 12 hải lý quanh các
đảo nhân tạo của Trung Quốc không phải là hiển nhiên, vì phải tuân thủ những cơ
sở pháp lý phức tạp.
Tuần
tra để bảo vệ tự do hàng hải chứ không phải để thách thức Bắc Kinh
Nếu Hoa Kỳ quyết định tiến hành các cuộc tuần tra, hiển nhiên đó
không phải là để thách thức tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc đối với quần đảo Trường
Sa. Mỹ đã nhiều lần xác định rằng họ sẽ không đứng về bên nào trên vấn đề chủ
quyền của các thực thể địa lý đang tranh chấp ở Biển Đông. Thay vào đó, bằng
cách tiến hành tuần tra trong vòng 12 hải lý quanh một số hòn đảo nhân tạo của
Trung Quốc, Washington sẽ cho thấy phần nào đó cách giải thích của Mỹ về luật
quốc tế (đặc biệt là Công ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển UNCLOS) liên quan đến
quyền tự do hàng hải.
Để hiểu rõ những vấn đề nẩy sinh trong trường hợp các đảo nhân tạo
của Trung Quốc và công việc tuần tra để khẳng định quyền tự do hàng hải của Mỹ,
cần xem xét các điều khoản của UNCLOS áp dụng trong tình huống này.
Không
phải tàu nào cũng được phép tự do hoạt động trong hải phận 12 hải lý của một
nước
Trong phạm vi vùng lãnh hải, được UNCLOS xác định là rộng 12 hải
lý, tàu từ tất cả các quốc gia được hưởng quyền «
quá cảnh vô hại » (innocent passage). Nhưng tàu phải đáp ứng một số
điều kiện nhất định để có thể được hưởng quyền này.
UNCLOS liệt kê một loạt hoạt động «
được xem là gây phương hại đến hòa bình, trật tự tốt hay an ninh của quốc gia
ven biển » và do đó không được bao gồm trong quyền «
quá cảnh vô hại ». Trong diện này, có loại hoạt động liên quan chặt
chẽ đến công việc Mỹ tiến hành ở Biển Đông : «
Bất kỳ hành vi nào nhằm thu thập thông tin có hại cho nền quốc phòng, an ninh
của các quốc gia ven biển » (Phần II, Mục 3, Điều 19).
Điều vừa kể có nghĩa là các quốc gia không có quyền tiến hành công
việc giám sát trong phạm vi lãnh hải của một quốc gia khác. Vì vậy, vấn đề một cấu
tạo nhất định có quyền sản sinh ra một vùng lãnh hải hay không rất quan trọng
để xác định xem liệu Hải quân Mỹ có thể gửi tàu do thám và/hoặc máy bay đến
tiến hành giám sát trong phạm vi 12 hải lý quanh cấu tạo đó hay không.
Vấn đề này, theo The Diplomat, được trả lời trong Điều 13, Mục 2,
Phần II của UNCLOS, toàn văn như sau :
1.
Một bãi cạn lúc chìm lúc nổi là một vùng đất được hình thành tự nhiên có biển
bao quanh, nhô lên trên mặt nước khi thủy triều thấp, nhưng
bị chìm xuống dưới mặt nước khi thủy triều cao. Khi toàn bộ hay một phần bãi cạn đó ở cách đất
liền hoặc một hòn đảo một khoảng cách không vượt quá chiều rộng của lãnh hải,
thì mực nước lúc thủy triều thấp nhất ở các bãi cạn này có thể được dùng làm
đường cơ sở để tính chiều rộng của lãnh hải.
2.
Trong trường hợp một bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn nằm cách đất liền hoặc
một hòn đảo một khoảng cách vượt quá chiều rộng của lãnh hải, thì bãi cạn đó không có lãnh hải riêng. [tác giả nhấn mạnh thêm]
Bãi
cạn lúc chìm lúc nổi và đảo nhân tạo không có lãnh hải
Thật vậy, bất kỳ cấu tạo nào mà chỉ nhô lên trên mặt nước khi thủy
triều xuống thấp là một bãi cạn lúc chìm lúc nổi (Low-tide elevation) và không được
hưởng một vùng lãnh hải, trừ phi chính nó là một phần của lãnh hải của một cấu
tạo khác (ví dụ, đường bờ biển của một quốc gia hoặc một hòn đảo).
Trong thực tế, các bãi cạn lúc chìm lúc nổi hoàn toàn không thể
được bao hàm trong các tuyên bố chủ quyền, trừ phi bản thân chúng nằm trong một
vùng lãnh hải hiện có. Như vậy theo UNCLOS, một nhà nước tuyên bố chủ quyền
trên một bãi cạn lúc chìm lúc nổi không có lý do gì để từ chối không cho tàu
nước khác, kể cả tàu quân sự, quyền đi vào bên trong vùng 12 hải lý.
UNCLOS cũng quy định rằng « đảo nhân tạo, cơ sở và công trình
kiến trúc không có quy chế hải đảo. Chúng không có lãnh hải riêng, và sự hiện
diện của chúng không ảnh hưởng đến việc phân định lãnh hải, vùng đặc quyền kinh
tế, thềm lục địa » (Phần V, Điều 60). Thay vì tạo ra một vùng lãnh
hải, đảo nhân tạo được phép có một « vùng an toàn », rộng
không quá 500 mét – tức là không đầy một phần tư hải lý.
Căn cứ vào các quy định kể trên trong Công ước Liên Hiệp Quốc về
Luật Biển, bài báo trên tờ The Diplomat đã xem xét vấn đề những hòn đảo nhân
tạo của Trung Quốc
Tàu quân sự chỉ bị cấm một cách rõ ràng là không được tiến hành do
thám trong phạm vi lãnh hải 12 hải lý của một quốc gia khác ; bãi cạn lúc chìm
lúc nổi không sản sinh ra lãnh hải, đảo nhân tạo cũng vậy ; do đó, không có lý
do hợp pháp ngăn cản không cho Hải quân Mỹ hoạt động bên trong vùng 12 hải lý
quanh các hòn đảo nhân tạo mà trước đây là bãi cạn lúc chìm lúc nổi.
Bảy
đảo nhân tạo của Trung Quốc tại Trường Sa không cùng một quy chế
Điểm cuối cùng vừa kể - thường bị bỏ qua vào lúc Trung Quốc tiến
hành cải tạo đất trên bảy thực thể ở Trường Sa - Đá Châu Viên (Cuarteron), Chữ Thập
(Fiery Cross), Ga Ven (Gaven), Tư Nghĩa (Hughes), Gạc Ma (Johnson), Vành Khăn
(Mischief), và Xu Bi (Subi) – là một số có đủ điều kiện để sản sinh ra một vùng
lãnh hải bao quanh, ngay cả trước khi được Trung Quốc bồi đắp.
Hiện không có đồng thuận về bản chất các cấu tạo đó, đơn kiện
Trung Quốc về Biển Đông của Philippines nộp lên Tòa án Trọng tài Thường trực
chỉ liệt kê ba trong bảy cấu tạo (Vành Khăn, Xu Bi và Ga Ven) là bãi cạn lúc
chìm lúc nổi mà thôi.
Các quan chức Mỹ thoạt đầu đã nói với tờ Wall Street Journal rằng
theo Hoa Kỳ, một số các đảo nhân tạo của Trung Quốc là bãi cạn lúc chìm lúc
nổi, và một số khác có quyền có lãnh hải ; công việc tuần tra vì quyền tự do
hàng hải mà Mỹ thực hiện sẽ chỉ đi vào bên trong vùng 12 hải lý của các cấu tạo
vốn là bãi cạn lúc chìm lúc nổi trước khi được Trung Quốc bồi đắp.
Nói cách khác, Hoa Kỳ không thách thức chủ quyền của Trung Quốc
đối với các thực thể ở vùng Trường Sa mà chỉ thách thức quy chế của những cấu
tạo đó theo luật quốc tế. Khi tiến hành tuần tra trong vùng 12 hải lý của Bãi Vành
Khăn, Đá Xu Bi, hoặc Đá Ga Ven, Mỹ sẽ báo hiệu rằng mặc dù các cấu tạo này đã
được bồi đắp thành đảo trong thời gian gần đây, Washington vẫn coi đó là bãi
cạn lúc chìm lúc nổi theo UNCLOS do đó không thể có lãnh hải.
Không
thể tạo ra tiền lệ cho đảo nhân tạo quyền có lãnh hải
Đó là cách giải thích theo nghĩa rất hẹp mà dựa theo đó, Mỹ sẽ
thách thức đòi hỏi chủ quyền của Trung Quốc bằng cách tiến hành các cuộc tuần
tra vì quyền tự do hàng hải. Điều đó không có nghĩa là Washington coi yêu sách
chủ quyền của Trung Quốc tại quần đảo Trường Sa là không hợp pháp, mà chỉ có
nghĩa đơn giản là Hoa Kỳ không công nhận yêu sách lãnh thổ đối với các cấu tạo
nguyên là bãi cạn lúc chìm, lúc nổi, ngay cả khi cấu tạo có liên quan đã được
bồi đắp và mở rộng một cách giả tạo để luôn luôn ở bên trên mặt nước khi thủy
triều cao.
Tầm quan trọng của việc thiết lập tiền lệ đó rất rõ ràng : Nếu bất
kỳ quốc gia nào cũng có thể nạo vét cát để bồi đắp các bãi cạn rồi tạo ra một
cách giả tạo vùng lãnh hải 12 hải lý, thì điều đó có thể có những hậu quả
nghiêm trọng đối với quyền tự do hàng hải, đặc biệt là ở Biển Đông.
Theo trang mạng Digital Gazeeter of the Spratly Islands, có rất
nhiều bãi cạn lúc chìm lúc nổi đang nằm trong tay các đối thủ của Trung Quốc,
trong đó có Việt Nam với Đá Tốc Tan (Alison Reef), Đảo Trường Sa Đông (Central Reef),
và Đá Núi Le (Cornwallis South Reef), Malaysia với Đá Kiêu Ngựa (Ardasier Reef)
và Đá Suối Cát (Dallas Reef) và Philippines với Đá Cá Nhám (Irving Reef).
Nếu có tiền lệ là một đảo nhân tạo được bồi đắp trên nền tảng một
bãi cạn lúc chìm lúc nổi, lại có quyền sản sinh ra lãnh hải, chúng ta có thể
thấy một sự bùng nổ của các hoạt động xây dựng ở khu vực vốn đang tranh chấp
gay go.
Cần hiểu rõ vấn đề như đã được trình bày ở trên khi sau này ta lại
đọc được một bài báo nói rằng Hoa Kỳ có kế hoạch thách thức chủ quyền của Trung
Quốc trên quần đảo Trường Sa thông qua việc tuần tra vì quyền tự do hàng hải.
Nhận xét đó không hoàn toàn sai, nhưng sự thật đằng sau hàng tựa phức tạp hơn nhiều.
__._,_.___
Mỹ-Ấn-Nhật
kêu gọi bảo vệ quyền tự do trên biển « kể cả ở Biển Đông »
Ngoại trưởng Mỹ John Kerry (G) bắt tay đồng nhiệm Ấn Độ Sushma
Swaraj (P) và Nhật Bản Fumio Kishida, trong cuộc gặp ba bên tại New York,
29/09/2015REUTERS/Darren Ornitz
Bên lề khóa họp Đại hội đồng Liên Hiệp Quốc đang diễn ra tại New
York, vào hôm qua, 29/09/2015, Ngoại trưởng ba nước Mỹ, Ấn Độ và Nhật Bản đã tổ
chức một cuộc họp tay ba đầu tiên. Trọng tâm cuộc họp là thảo luận về cách thức
tăng cường hợp tác giữa ba nước duy trì an ninh hàng hải ở vùng Ấn Độ - Thái
Bình Dương. Tình hình ở Biển Đông được ba nước đặc biệt nhấn mạnh.
Trong bản thông cáo báo chí được phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ
công bố sau cuộc họp, ba Ngoại trưởng Sushima Swaraj của Ấn Độ, Fumio Kishida
của Nhật và John Kerry của Mỹ đã nhấn mạnh trên tầm quan trọng của luật pháp
quốc tế và nhu cầu giải quyết hòa bình các tranh chấp.
Một điểm rất đáng chú ý trong bản thông cáo là ba Ngoại trưởng Ấn,
Nhật và Mỹ đã nêu bật mối quan ngại về tình hình Biển Đông khi nhấn mạnh đến
tầm quan trọng của « quyền tự do hàng hải và hàng không,
quyền làm thương mại mà không bị cản trở, kể cả ở vùng Biển Đông ».
Lãnh đạo ngoại giao ba nước cũng nhắc lại hậu thuẫn đối với vai
trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc chính trị đa phương và an ninh ở vùng
Châu Á-Thái Bình Dương. Họ cũng nhấn mạnh trên tầm quan trọng của cơ chế Thượng
đỉnh Đông Á trong tư cách là diễn đàn hàng đầu của các lãnh đạo để bàn cách
giải quyết các vấn đề then chốt về chính trị cũng như an ninh của toàn vùng.
Cụ thể trong lãnh vực an ninh hàng hải, 3 quốc gia đồng ý làm việc
chung với nhau, hợp tác chặt chẽ hơn để duy trì an ninh trên biển. Thông cáo
chung của cuộc họp xác định là « Hoa Kỳ và Ấn Độ hoan nghênh sự tham
gia của Nhật Bản vào cuộc tập trận Mỹ Ấn Malabar 2015 ».
Ba nước cũng thỏa thuận thành lập 1 nhóm công tác ở cấp chuyên gia
đặc trách vấn đề trợ giúp nhân đạo, cứu trợ thiên tai, nhằm nâng cao khả năng
phối hợp để cùng nhâu đối phó với những thảm họa phức tạp.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment