Biển
Đông: Mỹ và Trung Quốc ai trúng kế ai?
Lữ
Giang
Đài RFI của Pháp ngày 16.9.2016 có đăng bài "Tháng 11,
thời điểm định mệnh của Biển Đông?" của Tú Anh tóm lược bài phân tích «Bắc Kinh
có lẽ đang chờ thời điểm lý tưởng để tấn công ở biển Nam Trung Hoa»
(Beijing may be waiting for the perfect timing to strike in South China Sea)
của chuyên gia Harry Kazzianis, tân giám đốc Nghiên cứu Quốc phòng Mỹ thuộc
Trung tâm vì Quyền lợi Quốc gia ở Washington. Tác giả cho biết một viên chức Bộ
Quốc Phòng Mỹ nói rằng giai đoạn thích hợp nhất để Trung Quốc tấn công (bãi cạn
Scarborough) là từ giữa tháng 9 đến đầu tháng 11, Hoa Kỳ bị «việt vị» ở Biển
Đông vì cuộc bầu cử tổng thống. Trong khi đó một viên chức khác lại cho rằng
«nếu Trung Quốc ra tay thì thời điểm từ giữa tháng 9 đến tháng 11 không phải là
tốt nhất».
Vị
trí bãi cạn Scarborough
Thật ra đây chỉ là một kiểu tung hỏa mù của báo Mỹ. Trong cuộc
chiến Biển Đông hiện nay, chiến lược của Mỹ và của Trung quốc như thế nào?
Trung Quốc đã trúng kế Mỹ hay Mỹ đang trúng kế Trung Quốc? Ai sẽ thắng ai? Để
trả lời những câu hỏi này, trước hết phải nhìn lại chiến lược của cả Mỹ lẫn
Trung Quốc ở Trung Đông. Nếu chỉ nhìn các diễn biến thì không thể hiểu được.
CHIẾN LƯỢC CỦA HOA KỲ
Chúng tôi đã nhắc lại nhiều lần, trong một bài diễn văn đọc trước
Quốc Hội Úc ngày 17.11.2011, ông Obama tuyên bố sẽ
xoay trục từ Trung Đông về Á Châu Thái Bình Dương
(để bao vây Trung Quốc cả về kinh tế, chính trị lẫn quân sự). Ông nói: “Tại
khu vực Á Châu Thái Bình Dương trong thế kỷ thứ 21, nước Mỹ sẽ toàn tâm toàn
lực nhập cuộc.”
Xin nói rõ: Kế hoạch này không phải là kế hoạch của ông Obama. Vào
tháng 7 năm 2001, Hội đồng Bang giao Quốc tế Mỹ đã phổ biến một tài liệu mang
tên “Hoa
kỳ và Đông Nam Á: Đề nghị một chính sách mới cho tân chính phủ Bush” do cựu
Thượng Nghị sĩ John Kerrey và ông Robert A. Manning, một chuyên gia của Hội
Đồng An Ninh Quốc Gia và Hội Đồng Đại Tây Dương soạn thảo. Tài liệu nói rõ rằng
“Kinh
nghiệm của Hoa kỳ ở Châu Á chỉ cho chúng ta thấy là chúng ta sẽ có thể gặp rất
nhiều rủi ro ngày nào chúng ta còn lãng quên vùng Đông Nam Châu Á.” Người
có nhiệm vụ thi hành kế hoạch này trước tiên là Tổng Bush, sau đó là Tổng Thống
Obama. Người kế tiếp sẽ là bà Hillary hay bất cứ người nào nối quyền của Obama.
Tuy tuyên bố bằng dao to búa lớn như đã nói trên, từ năm 2011 đến
nay Tổng Thống Obama xem ra chẳng làm gì để ngăn chận sự bành trướng của Trung
Quốc ngoài việc "biểu
dương khí thế" bằng máy bay và tàu chiến, trong khi
Trung Quốc lấn chiếm hết đảo nọ đến đảo kia. Tại sao vậy?
Chúng tôi xin nhắc lại, trong cuộc họp ngày 18.11.2013 tại Bộ Tư
Lệnh các nước Châu Mỹ ở Washington, sau khi nhắc lại học thuyết mang tên Tổng
Thống Monroe được chấp thuận năm 1823 cho phép Hoa Kỳ can thiệp bằng quân sự
khi các nước thuộc Châu Mỹ Latin bị xâm phạm, Ngoại Trưởng Kerry tuyên bố: "Ngày nay,
chúng ta có một sự lựa chọn khác. Thời
đại của học thuyết Monroe đã cáo chung"
(The era of the Monroe Doctrine is over).
Trong thực tế, những hành động của Mỹ dựa vào học thuyết Monroe
không phải chỉ cáo chung ở Châu Mỹ Latin, mà đang cáo chung tại nhiều nơi trên
thế giới, nhất là tại Đông Âu, Trung Đông và Biển Đông.
Kể từ khi các võ khí lỗi thời còn tồn động lại từ sau chiến tranh
Việt Nam đã được Mỹ trút hết xuống Afghanistan và Iraq, Mỹ đã thay đổi chiến
lược: Từ
bỏ chiến lược CAN THIỆP BẰNG QUẬN SỰ dựa theo học
thuyết Monroe, và thay thế bằng chiến lược CHIẾN TRANH ỦY NHIỆM
(proxy war), đó là chủ trương thúc đẩy việc hình thành các lực lượng tại từng
khu vực để các lực lượng này tự đối đầu với nhau, Mỹ chỉ đứng đàng sau yểm trợ
và bán vũ khí.
Hiện nay trên Biển Đông, Mỹ chỉ "biểu dương
khí thế" chứ không đối đầu trực tiếp với Trung Quốc mà thúc đẩy Nhật,
Úc, Philippines, Việt Nam và Ấn Độ hình thành một lực lượng khu vực để đối đầu
với Trung Quốc. Tình hình nghiêm trọng hiện nay trên Biển Đông là do chiến lược
nầy gây ra.
CHIẾN
LƯỢC CỦA TRUNG QUỐC
Alexander L. Vuving, giáo sư tại Trung tâm Nghiên cứu an ninh Châu
Á - Thái Bình Dương ở Honolulu, chuyên gia trong lĩnh vực an ninh Châu Á, Biển
Đông, Việt Nam và Trung Quốc, đã tóm lược chiến lược của Trung Quốc ở Biển Đông
như sau:
Mục tiêu tổng thể của Trung Quốc là giành quyền kiểm soát Biển
Đông nhưng không phải thông qua các trận đánh lớn mà qua các hoạt động từng
bước thay đổi thực địa, tạo dựng một sân chơi có lợi cho mình.
Ý tưởng then chốt là làm sao để “không
đánh mà vẫn thắng” (winning without fighting).
Khi cần tranh chấp lãnh hải, đầu tiên Trung Quốc đưa tàu
đánh cá đến khu vực, tiếp theo là tàu hải giám và cuối cùng mới là tàu chiến.
Chiến lược này được gọi là “chiến lược
bóc lá bắp cải” hay “chiến lược
tằm ăn dâu”. Bình luận trên National Interest, tác giả
Harry J. Kazianis cho rằng vũ khí lợi hại nhất của Bắc Kinh không phải là quân
sự mà có thể là các tàu đánh cá.
Yếu tố đầu tiên là tránh tối đa những
trận đánh lớn. Yếu tố thứ hai là kiểm soát các vị trí chiến
lược trong khu vực nếu những vị trí này còn chưa có ai chiếm hữu. Cần phải
chiếm một cách âm thầm lén lút nếu có thể, và
nếu cần thiết, bằng một cuộc xung đột có giới hạn.
Yếu tố thứ ba là phát triển những vị trí này thành các trạm kiểm soát mạnh, các
trung tâm hậu cần vững chắc và các căn cứ triển khai sức mạnh quân sự một cách
hiệu quả.
Trung Quốc nhận thấy: Đảo Phú Lâm, bãi Chữ Thập, bãi Vành Khăn và
bãi cạn Scarborough sẽ tạo thành một cụm bốn điểm mà từ đó, với bán kính 250
hải lý, Trung Quốc có thể theo dõi chặt chẽ toàn bộ khu vực chính của Biển
Đông. Cùng với đảo Phú Lâm và 7 đảo nhân tạo ở Trường Sa, Trung
Quốc có thể triển khai hàng ngàn
tàu cá và tàu hải giám, đẩy Việt Nam,
Philippines, Malaysia, và Indonesia ra khỏi vùng biển mà Bắc Kinh coi là của
riêng mình.
AI TRÚNG KẾ AI?
Để thực hiện chiến lược chiến tranh ủy nhiệm tại Biển Đông, như
chúng tôi đã trình bày trong bài "Biển
Đông: Những trò chơi tai hại!"
phổ biến ngày 9.6.2016, các chuyên gia cho biết Mỹ
đã có những hành động khiêu khích để Trung Quốc phải nỗ lực lấn chiếm nhanh hơn
vì sợ Mỹ sẽ ra tay trước. Phương thức này đã đưa
đến năm hệ lụy chính sau đây:
(1) Tạo ra sự bất hòa và căng thẳng thường xuyên giữa Trung Quốc
và các nước trong vùng.
(2)
Thúc đẩy các nước trong vùng phải liên kết lại với nhau để đối phó với Trung
Quốc.
(3) Biến Trung Quốc thành một quái vật trước dư luận quốc tế vì
sống trên và ngoài vòng luật pháp quốc tế về luật biển.
(4) Bắt buộc Trung Quốc phải gia tăng chi phí quốc phòng vào những
mục tiêu phiêu lưu mà họ đang theo đuổi.
(5) Tạo lý do cho Bộ Quốc Phòng Mỹ xin gia tăng thêm ngân sách
quốc phòng,
Nhìn
vào 5 hệ lụy trên, chúng ta có thể nói Trung Quốc đã trúng kế Mỹ.
Nhưng Mỹ đã thất bại trong chiến thuật kích động các nước trong vùng liên kết
lại với nhau để chống Trung Quốc.
AI SẼ THẮNG AI?
Trong một bản báo cáo dài 430 trang mới được công bố có tên gọi là "Tương
quan quân sự Mỹ-Trung…",
được soạn thảo bởi 14 học giả, tổ chức RAND, một tổ chức nghiên cứu ở Caloifornia,
cho rằng lực lượng quân sự Mỹ vẫn luôn giữ được ưu thế trong hầu hết các tiêu
chí về quân sự và quốc phòng.
Trong khi đa số người Việt đấu tranh lo lắng và gào thét về việc
Trung Quốc đang lấn chiếm Biển Đông, Hoa Kỳ ít quan tâm đến các cơ sở quân sự
mà Trung Quốc đang thiết lập trên các đảo nhân tạo ở Biển Đông. Theo tổ chức
RAND, nếu
chiến tranh xảy ra, hệ thống tàu ngầm của Mỹ sẽ “san bằng” toàn bộ các đảo nhân
tạo của Trung Quốc ở Biển Đông một cách dễ dàng và nhanh chóng.
Hoa Kỳ cũng không quan tâm đến việc Trung Quốc dọa thiết lập Vùng
nhận dạng phòng không (ADIZ) ở Biển Đông. Ngày 23.11.2013 Trung Quốc đã tuyên
bố thiết lập ADIZ ở biển Hoa Đông. Chỉ ba ngày sau, ngày 26.11.2-16, Mỹ đã đưa
2 máy bay ném bom B-52 bay qua vùng ADIZ mà không hề thông báo cho phía Trung
Quốc biết. Sau đó, các hãng hàng không vận tải All Nippon Airways (ANA) và
Japan Airlines (JAL) cũng tuyên bố không tuân thủ yêu cầu của phía Trung Quốc.
Từ thời điểm đó đến nay, vùng ADIZ ở biển Hoa
Đông bị vô hiệu hóa. Số phận của ADIZ nếu được thiết lập tại Biển
Đông thì cũng thế thôi.
Giáo sư Alexander L.Vuving cho rằng nếu các đối thủ của Trung Quốc
không có đối sách bẻ gãy chiến lược của Trung Quốc, "Trung Quốc
sẽ nổi lên như là chúa tể của Biển Đông, ít nhất là trong nhận thức của hầu hết
các nước trong khu vực. Từ đây, sẽ chỉ còn vài bước để vươn tới vị trí bá quyền
khu vực và toàn cầu".
Mặc dầu có nhiều sự sự kích động như thế của Mỹ, việc hình thành
một lực lượng vùng để chống Trung Quốc là chuyện khó thành vì hai lý do chính
sau đây: Lý do thứ nhất là các quyền lợi về mậu
dịch giữa các nước trong vùng và Trung Quốc còn rất lớn.
Lý do thứ hai là mối đe dọa của Trung
Quốc mà các chuyên gia Mỹ nên ra ít có dấu hiệu trở thành hiện thực.
Trung Quốc chưa đủ lực để làm chuyện đó.
Vả lại, nếu Trung Quốc thao túng Biển Đông, không phải chỉ các
nước trong vùng bị thiệt hại mà các cường quốc, nhất là Mỹ, cũng phải bảo vệ
quyền lợi của chính họ. Vì thế, Việt Nam đã tuyên bổ dứt khoát: "Việt Nam
không đi với nước này để chống lại nước kia".
Philippines là nước nằm trong hiệp định bảo vệ của Mỹ, cũng đã từ chối không
tham gia vào các cuộc tuần tra của Mỹ. Phát biểu tại căn cứ không quân Villamor
gần thủ đô Manila, ông Duterte xác định: «Chúng ta
sẽ không tham gia bất kỳ một chiến dịch thuộc hải hành hoặc tuần tra biển nào
(trên Biển Đông). Tôi sẽ không cho phép
bởi vì tôi không muốn đất nước bị lôi kéo vào một hành động thù địch…
»
Như vậy có thể kết luận rằng chiến lược chiến tranh ủy nhiệm của
Mỹ tại Biển Đông đang thất bại, tuy Mỹ có bán thêm được một số vũ khí. Nhưng Mỹ
chỉ trở lại chiến lược can thiệp bằng quân sự ở Biển Đông khi các quyền lợi cốt
lõi của Mỹ ở đó bị xâm phạm mà thôi.
Ngày 22.9.2016
Lữ Giang
__._,_.___
No comments:
Post a Comment