To: anhdalat23
From: PhoNang
Date: Fri, 4 Mar 2016 17:30:39 +0000
Subject: [PhoNang] HỆ THỐNG ĐÁNH CHẶN THAAD Ở NAM HÀN
From: PhoNang
Date: Fri, 4 Mar 2016 17:30:39 +0000
Subject: [PhoNang] HỆ THỐNG ĐÁNH CHẶN THAAD Ở NAM HÀN
BẮC TRIỀU TIÊN QUẬY- TẠO CƠ HỘI TỐT CHO MỸ Ở KHU VỰC BẮC Á
HỆ THỐNG ĐÁNH CHẶN THAAD Ở NAM HÀN
tka23
post
Hệ
thống THAAD là hệ thống đánh chặn hỏa tiển thế hệ mới do Mỹ nghiên
cứu và chế tạo. Đạn đạo tạo
thành một hình parabol, có thể chia thành 3 giai đoạn:
Giai đoạn đi lên, giai đoạn giữa và giai
đoạn cuối; Và hệ thống THAAD có thể đánh chặn những hỏa tiển giai
đoạn cuối. Một đơn vị tác chiến của hệ thống THAAD bao gồm hệ thống phóng, đạn đánh chặn, hệ
thống chỉ huy và radar. Trong đó, quan trọng nhất và cũng gây nhiều
tranh cãi nhất là radar sóng X, FBX-T.
Loại hình radar này có hai mô hình hoạt động: Mô hình thứ nhất
với vai trò là radar dẫn đường cho hệ thống đánh chặn THAAD, chỉ bó hẹp trong
việc theo dõi quỹ tích hỏa tiển đầu cuối, thực hiện nhiệm vụ
chiến thuật, do đó năng lực do thám tên hỏa tiển chiến lược có hạn; Mô hình thứ
hai hoạt động với vai trò là một khâu trong hệ thong phòng thủ hỏa
tiển của Mỹ, theo dõi hỏa tiển chiến lược phía địch phóng đi và
cung cấp số liệu sớm cho cơ quan đầu não ở Bắc Mỹ. Các chuyên viên đưa ra
nhiều giá trị ước lượng về khoảng cách thăm dò của mô hình thứ hai, khoảng cách
thăm dò lấy đầu đạn làm mục tiêu nằm trong khoảng 1.200 – 2.700 km.
Giả định sóng FBx-T ở khoảng cách 1.200 km có năng lực thăm dò
và nhận biết hoàn chỉnh đối với hỏa tiển đạn đạo, kết hợp với bản
đồ, chúng ta không khó nhận ra rằng, nếu lắp đặt hệ thống THAAD ở Hàn Quốc, thì
khi hệ thống radar của nó chuyển sang mô hình hoạt động thứ hai (một số chuyên viên
cho rằng thời gian chuyển đổi hai mô hình này chỉ cần 8 giờ đồng hồ), thì
không chỉ hỏa tiển phóng từ bán đảo Triều Tiên, mà cả hỏa tiển
phóng từ miền Bắc và miền Đông Trung cộng , thậm chí đến biển Bột Hải, Hoàng Hải và biển Hoa
Đông đều nằm dưới sự giám sát của hệ thống này. Điều này đã vượt quá xa
nhu cầu phòng thủ đối với hỏa tiển Triều Tiên, mà bắt đầu chèn ép
không gian tác chiến của lực lượng hoả tiển chiến lược của
Trung cộng ; Điều này sẽ làm tổn hại nghiêm trọng đến năng lực đáp trả hạt nhân
của Trung cộng .
Mô hình phân chia giai đoạn phóng hỏa tiển
Để xóa bỏ mối nghi ngờ của Trung cộng đối với vấn đề
này, các giới chức của phủ Mỹ và Hàn Quốc đều đã đưa ra đủ mọi lý do
thuyết phục, tổng kết lại lý luận căn bản của các luận chứng
này là:
Thứ nhất, chính quyền Triều Tiên luôn ở trong trạng thái bất ổn
và thiếu chữ tín,
cộng với việc vũ khí thường quy của họ rơi vào thế yếu tuyệt đối, do đó luôn
tồn tại mối nguy hiểm “Tiều Tiên phát động cuộc tấn công hạt nhân hữu hạn đối
với Hàn Quốc và Mỹ”, tăng
cường phòng thủ ở khu vực Đông Bắc Á là điều cần thiết;
Thứ hai, hệ thống THAAD với vai trò là hệ thống đánh chặn hỏa
tiển tầm cao giai đoạn cuối thế hệ mới là cần thiết đối với Hàn Quốc, hệ thống
này cùng các hệ thống đánh chặn hỏa tiển Hàn Quốc đã có như Patriot
-3, Green Pine tạo thành mạng lưới đánh chặn hỏa
tiển tầm cao, tầm trung và tầng thấp, từ đó giúp Hàn Quốc an toàn
hơn;
Thứ ba, với hai điểm nói trên, radar của hệ thống THAAD sẽ ở
trong mô hình hoạt động thứ hai, hay nói cách khác năng lực do thám của hỏa
tiển đạn đạo có hạn, sẽ không thể làm suy yếu năng lực đáp trả hạt nhân
của Trung cộng , từ đó không đe dọa đến an ninh chiến lược của quốc gia này.
Tuy nhiên, nếu nghiên cứu kỹ sẽ thấy, dù xét về lý thuyết
hay thực tế, luận chứng này đều không thể thành hình .
Trước hết, chính quyền Triều Tiên là một chính
quyền theo đuổi sự tồn tại chứ không phải muốn tự hủy diệt, do đó Bình
Nhường muốn sử dụng vũ khí hạt nhân để ngã giá chứ không phải “kéo tất cả về cõi chết”,
sử dụng đại bác, hỏa tiển đạn đạo thường quy và đạn hỏa tiển để giải
quyết những tranh chấp ở khu biên giới sẽ là lựa chọn phù hợp hơn với lợi ích
của Triều Tiên, do đó công nghệ được sử dụng trong hệ thống phòng thủ hỏa
tiển như hệ thống phòng thủ Iron Dome của Israel sẽ phù hợp với lợi ích
của Hàn Quốc hơn.
Thứ hai, kể cả thừa nhận “Triều Tiên có năng lực tấn công hạt
nhân hữu hạn”, nhưng xét về hiệu quả công nghệ, ý nghĩa của hệ thống THAAD cũng
không lớn.
Trong bản báo cáo trình quốc hội, Bộ quốc phòng Mỹ cũng thừa
nhận, lắp đặt hệ thống THAAD ở Hàn Quốc chỉ có thể bảo vệ miền Nam Hàn Quốc, không thể bao trùm được
thủ đô Seoul – trung tâm kinh tế, chính trị đông dân; Đồng thời thời
gian báo động không rút ngắn được nhiều.
Thứ ba, Mỹ và Hàn Quốc cam kết với Trung cộng không
khởi động mô hình hoạt động thứ hai là hoàn toàn dựa vào những câu nói ngoại
giao chứ không phải hành động thực tế, chắc chắn Trung Quốc không thể tin vào
điều này.
Xét về cục diện Đông Bắc Á, do sức ép mà chiến lược trở lại châu
Á Mỹ gây ra và những xung đột về lợi ích trong các vấn đề mang tính khu vực và
toàn cầu của Mỹ và Trung cộng , mối quan hệ giữa hai nước đã ở trong trạng thái
thiếu lòng tin vào nhau, cả hai đều không tin vào những cam kết về ngoại giao
của đối phương. Trong bối cảnh này, chỉ cần Mỹ có biện pháp đe dọa đến an ninh
chiến lược của Trung cộng tại Đông Bắc Á, cho dù về mặt ngoại giao
“thiện chí” và “cam kết” như thế nào, Trung cộng cũng
đều không tin Mỹ không sử dụng các hệ thống vũ khí này trong thời điểm xảy ra
xung đột. Do đó, cơn bão THAAD vẫn sẽ tiếp
tục là vấn đề khiến quan hệ hai nước đóng băng.
“Cuộc khủng hoảng hỏa tiển Cuba” phiên bản châu Á?
Sự kiện THAAD được lắp đặt ở Hàn Quốc khiến người ta liên tưởng
đến cuộc khủng hoảng hỏa tiển ở Cuba hơn 50 năm về trước: Liên Xô lắp đặt hệ
thống hỏa tiển tầm trung tại nước láng giềng của Mỹ là Cuba để bổ
trợ cho những khiếm khuyết trong năng lực tấn công chiến lược nhằm vào nước Mỹ.
Trên thực tế, nếu đứng trên góc độ công nghệ và hậu quả chiến
lược, hai cuộc khủng hoảng này có nhiều điểm tương tự; Mặc dù cuộc “khủng hoảng hỏa
tiển Đông Bắc Á” không đến mức dẫn đến cuộc chiến tranh hạt nhân toàn
cầu, nhưng chắc chắn Trung cộng sẽ rút ra bài học kinh nghiệm từ
hoàn cảnh của Mỹ năm xưa.
Tổng thống Mỹ Kennedy và nhà lãnh đạo Khrushchev của Liên Xô,
hai nhân vật chính trong cuộc khủng hoảng hỏa tiển Cuba 1962.
Giống như phần trên đã nói, mối đe dọa của hệ thống THAAD đối
với Trung cộng tập trung ở radar sóng X FBX-T của thiết bị này. “Sóng X”
là sóng radar, đại diện cho phạm vi tần suất sóng điện từ phát ra.
Thông thường, (sóng ngắn) cao tần có
khả năng nhận biết mục tiêu chính xác hơn, cự ly quét khá gần, phạm vi khá nhỏ;
Dải sóng thấp tần (sóng dài) cự ly quét
khá xa, phạm vi khá lớn, nhưng năng lực nhận biết mục tiêu lại khá yếu.
Điều này gây ra khó khăn cho hệ thống phòng thủ hỏa tiển :
Radar sóng dài “nhìn được xa”, thường đảm nhận vai trò
cảnh báo sớm, giám sát hỏa tiển tấn công từ xa, nhưng “nhìn không rõ”,
không thể nhận biết mục tiêu;
Radar sóng ngắn “nhìn rõ hơn”, nếu được lắp đặt ở vị phù
hợp thậm chí có thể quan sát được đầu đạn và thân đạn phân tách, từ đó phân
biệt được đầu đạn và mồi nhử, tuy nhiên lại “nhìn quá gần”; do đó, nhiệm vụ
phân biệt đầu đạn thật và mồi nhử có hoàn thành hay không, một bước quan trọng
là tìm được địa điểm lắp đặt radar sóng ngắn phù hợp ở tiền tuyến giáp với phía
địch.
Hỏa tiển đạn đạo tầm trung R12 từng được bố trí tại Cuba vào năm
1962.
Trên thực tế, lắp đặt
radar sóng X ở vị trí quá gần cũng là trở ngại công nghệ phòng thủ hỏa
tiển của Mỹ hiện nay. Một chuyên gia của trường đại học Stanford cho rằng,
cán cân cân bằng
giữa hỏa tiển và đánh chặn hỏa tiển được quyết định bởi khoảng cách
về thực lực giữa hai bên; Đối với công nghệ hỏa tiển thô sơ
của Triều Tiên hoặc Iran, hệ thống phòng thủ hỏa tiển phát huy được
công năng nhận biết và đánh chặn; Tuy nhiên đối với loại hỏa tiển tôi
tân của Nga và Trung cộng , khó chặn .
Phía giới
chức Mỹ cũng thừa nhận, hệ thống phòng thủ hỏa tiển hiện có không
thể đáp ứng nhu cầu chiến lược, thiếu biện pháp đối phó với hỏa
tiển chiến lược của Nga và Trung cộng , do đó nhu cầu ngân sách quốc
phòng năm 2015 có hai dự án liên quan đến công nghệ phát hiện mục tiêu.
Tuy nhiên trong bối cảnh công nghệ chưa thể có bước đột
phá như hiện nay, Mỹ buộc phải tìm biện pháp khác để nâng cao năng lực nhận diện mục tiêu.
Do đó, lắp đặt radar sóng ngắn ở khu vực lân cận Nga và Trung cộng đã
trở thành biện pháp nhanh gọn nhất để Mỹ nâng cao năng lực đánh chặn hỏa tiển ,
làm suy yếu năng lực đáp trả hạt nhân của đối thủ.
Sóng radar dải X của THAAD là một radar tầm ngắn rất hữu hiệu.
Một mặt, độ chính xác trong nhận biết mục tiêu của nó rất cao; Mặt khác, cự ly
thăm dò mục tiêu của nó cũng phù hợp (ngoài 1.200 km phân biệt được cả thân
đạn). Hiện tại ở khu vực Đông Bắc Á và Tây Thái Bình Dương, có ba khu vực đã
lắp đặt radar sóng X: căn cứ quân sự Aomori thuộc miền Bắc Nhật Bản, căn cứ
quân sự Kyoto thuộc miền Nam Nhật Bản và căn cứ quân sự đảo Guam.
Mạng lưới do các radar này tạo thành đã theo dõi và nhận biết
được hỏa tiển phóng từ phía Đông và trên biển của Trung cộng ; đặc
biệt địa điểm phóng hỏa tiển đạn đạo phóng từ tàu ngầm của Trung Quốc
hiện chủ yếu vẫn nằm ở phạm vi chuỗi đảo thứ nhất, khi tên lửa được phóng lên,
về cơ bản vẫn nằm trong phạm vi giám sát của mạng lưới radar này. Tuy nhiên
mạng lưới này vẫn tồn tại một điểm mù quan trọng: Trong
vòng 160 giây kể từ lúc hỏa tiển phóng từ tàu ngầm được phóng lên
không trung, điểm then chốt để đầu đạn và thân đạn phân tách vẫn phải dựa vào
radar ở căn cứ quân sự Kyoto ở miền Nam Nhật Bản nắm bắt, độ chính xác của có
hạn; Nếu quan sát được tiến trình trình này ở cự ly gần thì có thể
dựa vào các tham số chính xác hơn để nâng cao hiệu quả nhận biết, phân biệt
được đầu đạn từ mồi nhử.
Từ những phân tích trên có thể thấy, lộ trình căn bản của Mỹ là
lắp đặt hệ thống radar dải sóng X có khả năng nhận biết cao ở vị trí gần nhất,
từ đó bổ trợ cho bất cập trong cự ly quan sát; Điều này cũng giống như việc
Liên Xô bố trí hệ thống hỏa tiển tâm trung ở Cuba để bổ khuyết cho
năng lực tấn công chiến lược. Tuy nhiên, mặc dù “cuộc khủng hoảng hỏa tiển
Cuba” phiên bản châu Á không đến mức chầm ngòi nổ cho cuộc chiến tranh
hạt nhân toàn diện, nhưng lại đe dọa nghiêm trọng đến an ninh quốc gia Trung cộng
và sự ổn định chiến lược Trung – Mỹ.
Đe dọa đến tính ổn định chiến lược
Lắp
đặt hệ thống THAAD ở Hàn Quốc là mối đe dọa an ninh đối với Trung cộng .
Trong thời bình, radar sóng X gần Trung cộng hơn
có thể quan sát tốt hơn các thí nghiệm hỏa tiển của Trung cộng , đặc
biệt là các thí nghiệm trên vùng biển thuộc miền Đông Trung công , từ đó tích
lũy số liệu cho giai đoạn xảy ra chiến tranh;
Khi mối quan hệ Trung cộng – Mỹ xảy ra khủng hoảng
hoặc xung đột, sóng radar X tại Hàn Quốc có thể chuyển đổi mô hình hoạt
động, trở thành máy do thám hỏa tiển đạn đạo phóng từ tàu ngầm, nâng cao
năng lực đánh chặn của Mỹ đối với hỏa tiển Trung cộng . Mối đe dọa
an ninh này một mặt là nhằm vào Trung cộng , mặt khác là sẽ đe dọa đến tính ổn
định chiến lược của cả hai nước Trung – Mỹ.
Một căn cứ hỏa tiển hạt nhân Liên Xô tại Cuba trong
cuộc khủng hoảng.
Khái niệm “tính ổn định chiến lược” bắt nguồn từ thời kỳ Chiến
tranh lạnh. Chỉ tiêu đánh giá quan trọng nhất là “tính ổn định bị khủng
hoảng”, hay nói một cách hình tượng là “xác suất hai bên tranh thủ bấm
nút sử dụng vũ khí hạt nhân”. Nếu mối quan hệ giữa hai bên rơi vào trạng thái
khủng hoảng, bên này cho rằng đánh đòn phủ đầu không đem lại lợi ích gì, đồng
thời cũng biết bên kia cũng có suy nghĩ giống mình, và đối phương cũng biết bên
này có suy nghĩ đó. Như thế, kể cả mối quan hệ giữa hai bên rất xấu, xác
suất hai bên phóng hỏa tiển sang nhau cũng khá thấp. Đây chính là “tính ổn
định chiến lược”.
Tính ổn định chiến lược được quyết định bởi nhiều yếu tố,
sự đối trọng của công nghệ hỏa tiển và đánh chặn chính là một trong những
yếu tố đó. Nếu năng
lực đánh chặn của bên phòng thủ hỏa tiển rất mạnh, thì bên phóng hỏa
tiển sẽ không ngoan ngoãn chờ chết; Một mặt họ có thể lựa chọn
phóng hỏa tiển trước khi hệ thống đánh chặn của phía đối phương phát
huy được tác dụng để không bị đánh chặn; mặt khác họ cũng có thể lựa chọn đánh
đòn phủ đầu tiêu diện hệ thống radar và đánh chặn mà đối phương lắp ở tiền
tuyến. Cho dù bên phóng hỏa tiển lựa chọn phương án nào, đều sẽ nâng
cao nguy cơ xảy ra chiến tranh hạt nhân. Do đó, sử dụng hệ thống đánh chặn để
ngăn chặn năng lực đáp trả của đối thủ, đều sẽ phá hoại tính ổn định chiến lược, khuyến khích đối thủ áp
dụng sách lược tấn công đánh đòn phủ đầu.
Đối với Trung cộng , từ năm 2006, quốc gia này công khai tuyên
bố “chiến lược phòng thủ tự vệ hạt nhân”, quan trọng nằm ở năng lực đáp trả hạt
nhân . Nếu đối thủ không dám chắc sẽ tiêu diệt được năng lực đáp trả hạt nhân
của Trung cộng , và Trung cộng lại đột phá được hệ thống đánh chặn
hỏa tiển của đối thủ sau khi bị tấn công hạt nhân, đưa vũ khí hạt nhân
vào lãnh thổ đối thủ, vậy thì các nhà lãnh đạo Trung cộng không cần thiết
phải phát động tấn công phủ đầu. Tuy nhiên sự cân bằng này
sẽ bị đánh bại vì hệ thống THAAD được lắp đặt ở Hàn Quốc.
Sự bất an của giới lãnh đạo Trung cộng cũng sẽ khiến Mỹ
đối mặt với nguy cơ vấp phải đòn tấn công phủ đầu trong thời khắc khủng hoảng,
tức tính ổn định chiến lược Trung – Mỹ mất đi. Một điều cần lưu ý là, do năng
lực chống tiếp cận/ chống xâm nhập của Trung cộng dựa vào các loại hình
hỏa tiển đạn đạo, Trung – Mỹ cũng sẽ phải đối mặt với sự mất ổn định về
chiến lược trong xung đột vũ khí thường quy. Giả sử Trung cộng và Mỹ xảy
ra xung đột ở eo biển Đài Loan, để cho hỏa tiển đạn đạo tấn công
được lực lượng trên biển và trên không của Mỹ, Trung cộng sẽ có lý do
lớn đánh đòn phủ đầu để vô hiệu hóa hệ thống THAAD của quân đội Mỹ tại
Hàn Quốc, điều này sẽ đẩy cục diện leo thang không thể kiểm soát.
Bệ phóng của hệ thống THAAD với 8 ống phóng hỏa tiển .
Tóm lại, việc Mỹ lắp đặt hệ thống THAAD tại Hàn Quốc sẽ trở
thành nguy cơ nghiêm trọng cho an ninh chiến lược khu vực lân cận Trung cộng ,
mức độ đe dọa của nó không hề thua kém việc Liên Xô lắp đặt hệ thống hỏa tiển
tại Cuba để nhằm vào Mỹ.
Do sự đan xen về lợi ích của các bên
Trung – Hàn, Trung – Mỹ, Hàn – Mỹ và vấn đề hạt nhân Triều Tiên, cơn sóng dư
THAAD sẽ tiếp tục kéo dài một thời gian và trở thành rào cản lớn cho an ninh
chiến lược của Đông Bắc Á.
Đ.Q
__._,_.___
No comments:
Post a Comment