Saturday 22 August 2015

Trung Quốc 'cơi nới đảo nhiều hơn công bố'

Trung Quốc 'cơi nới đảo nhiều hơn công bố'

  • 21 tháng 8 2015
Công trình của Trung Quốc trên Đá Subi
Lầu Năm Góc nói Trung Quốc mở rộng diện tích đảo nhân tạo tại Trường Sa trong Biển Đông nhiều hơn được biết.
Phúc trình mới của Bộ Quốc phòng Hoa Kỳ cũng cho hay Bắc Kinh vừa kết thúc xây dựng đường băng trên một trong bảy điểm tiền tiêu mà Trung Quốc xây cất lên.

Khi đường băng mới này, trên Đá Chữ Thập (Trung Quốc gọi là Vĩnh Thử), được đưa vào hoạt động thì Trung Quốc có thể sử dụng nó cho các chiến đấu cơ đặt trên hàng không mẫu hạm để thực hiện các chiến dịch ở ngoài khơi xa.

Hàng không mẫu hạm duy nhất mà Trung Quốc có trong tay đã tham gia các hoạt động tập dượt ở Biển Đông nhưng chưa được vận hành hoàn toà. Một số chuyên gia cho rằng Trung Quốc có thể sẽ tự sản xuất tàu sân bay khoảng năm 2020 như một phần trong kế hoạch phát triển hải quân xa bờ của mình.

Phúc trình của Lầu Năm Góc, có tên Chiến lược An ninh Hàng hải Châu Á-Thái Bình Dương, nói tại các nơi Trung Quốc xây cất đảo, nước này đào các kênh sâu cùng các điểm đậu để tàu cỡ lớn có thể cập bến.

Phúc trình viết: "Cơ sở hạ tầng mà Trung Quốc dường như đang xây dựng có thể giúp tăng hiện diện quyền lực của nước này ở Biển Đông".


Kể từ khi Trung Quốc bắt đầu công việc xây cất tháng 12/2013 cho tới tháng 6/2015, Bắc Kinh đã cơi nới tới 1.170 ha đảo nhân tạo, nhiều hơn trước nghĩ tới 30%.
Trong một thông cáo, Bộ Ngoại giao Trung Quốc nói nước này đã "hoàn tất dự án cải tạo đảo và bãi đá" vào cuối tháng Sáu.
Bộ này cũng nói thêm là các hoạt động xây dựng của Trung Quốc hoàn toàn phù hợp chủ quyền của nước này.

Đầu tháng Tám, Bộ trưởng Ngoại giao Vương Nghị nói Bắc Kinh đã dừng việc cải tạo đảo, mà Trung Quốc nói có mục đích cả quân sự và dân sự như tìm kiếm cứu nạn, hoa tiêu hàng hải...

Phúc trình của Hoa Kỳ thì cho rằng "Trung Quốc đang đơn phương thay đổi hiện trạng vật lý tại khu vực, làm phức tạp thêm các nỗ lực ngoại giao giảm căng thẳng ở nơi đây".

So với các nước xung quanh cũng làm công việc cải tạo đảo, chỉ trong 20 tháng Trung Quốc cơi nới gấp 17 lần diện tích các nước khác gộp lại trong 40 năm và chiếm tới 95% tổng diện tích đảo nhân tạo trong Biển Đông.


Monday 17 August 2015

Hải quân Đại Tá Lê Bá Hùng nhậm chức Hải đội trưởng hải đội 7 khu trục hạm




Thêm một niềm hãnh diện nữa cho cộng đồng người Việt ở Hải Ngoại. Đại Tá Hải Quân Lê Bá Hùng đã nhậm chức Hải Đội Trưởng Hải Đội 7 Khu Trục Hạm. Chúc anh tiếp tục đạt được thành tích tốt và sẽ lên chức tướng trong tương lai gần đây.

Hải quân Đại Tá Lê Bá Hùng nhậm chức Hải đội trưởng hải đội 7 khu trục hạm

T7, 08/15/2015 - 16:27



Theo tin từ Pacific Fleet Surface Ships News. Vào ngày 12 tháng 8 năm 2015, tại căn cứ Hải quân thuộc Lực lượng đặc nhiệm 73 và Hải đội 7 khu trục hạm tại Singapore, hải quân Đại Tá Lê Bá Hùng vừa thay thế Đại tá Fred Kacher để nhậm chức Hải đội trưởng hải đội 7 khu trục hạm (COMDESRON SEVEN).

Trong buổi lễ bàn giao dưới sự chủ trì của Phó đề đốc Charlie Williams, Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm 73 đã chúc mừng Đại tá Hùng và nói lời chia tay Đại tá Fred Kacher lên đường nhận nhiệm vụ mới.

Đại tá Lê Bá Hùng được thăng cấp Đại tá năm 2014, và thuyên chuyển về làm Chỉ huy phó hải đội 7 khu trục hạm từ tháng 1 năm 2015.

Cần nên biết, trong tháng 12 năm 2012, Hải đội 7 khu trục hạm đã di chuyển đến Đông Nam Á để đặt bộ chỉ huy đồn trú tại Singapore yễm trợ cho Đệ thất hạm đội trong khu vưc Á Châu Thái Bình Dương.

Hải đội 7 khu trục hạm hiện được giao nhiệm vụ chỉ huy chiến thuật các chiến hạm Littoral Combat (LCS) luân phiên khai triển đến hoạt động tại Singapore,và cũng để hướng dẫn việc thực hiện toàn bộ chương trình Hợp tác và huấn luyện (CARAT) cho Tư lệnh lực lượng đặc nhiệm 73 với Hải quân các nước Đông Nam Á.

Vùng trách nhiệm của Hải đôị 7 do HQ Đại tá Lê Bá Hùng chỉ huy là khu vực tiếp giáp Biển Đông quần đảo Trường Sa, nơi Trung Cộng đang xây các đảo nhân tạo.
Đại tá Lê Bá Hùng đã phát biểu: “Tương lai của Hải đội 7 khu trục hạm thật là sáng lạn. Chúng ta có một đội ngũ chiến binh xuất sắc, từ những chiến sĩ mới gia nhập cho đến những vị trí chỉ huy lâu năm. Mỗi cá nhân đều đóng góp đáng kể vào trách nhiệm đối với khu vực hải lộ quan trọng vào bậc nhất trên thế giới này. Mỗi người đều đang vươn lên và tạo ra sự khác biệt. Tôi rất may mắn có mặt trong đội ngũ những người thuỷ thủ xuất sắc này”.
Hình ảnh người sĩ quan chỉ huy Hoa Kỳ gốc Việt xuất chúng có mặt ở vùng biển Đông Nam Á vào thời điểm nóng bỏng này, đã làm nhiều người trong cộng đồng người Việt cảm thấy phấn khích. Hải quân Hoa Kỳ sẽ làm điểm tựa vững chắc cho các nước trong khu vực này chống lại hiểm hoạ xâm lược từ Bắc Kinh. (Nam Yết)


Sunday 16 August 2015

Nhật Ký Biển Đông: Dân Chủ Đầu Sỏ, Độc Tài và Dân Chủ Nửa Mùa




Nhật Ký Biển Đông: Dân Chủ Đầu Sỏ, Độc Tài và Dân Chủ Nửa Mùa

Nhật Ký Biển Đông hai tuần đầu Tháng Tám ghi nhận những chuyển biến quan trọng như sau:

-The National Interest ngày 31/7/2015: “Tuần này, tạp chí An Ninh Á Châu (Asian Security Magazine) có trụ sở tại Gia Nã Đại cho biết Hoa Lục đã hoàn tất công trình xây dựng một cầu tầu dài 700 mét lớn nhất thế giới tại căn cứ hải quân tổng hợp đồ sộ Sanya thuộc Đảo Hải Nam phía nam Biển Trung Hoa. Theo bản báo cáo này, cầu tầu có thể phục vụ hai hàng không mẫu hạm hay tàu chiến cỡ lớn cập bến ở cả hai bên.”

            -AFP (Tokyo) ngày 31/7/2015: ”WikiLeaks cho biết cơ quan tình báo Mỹ đã nghe lén các chính trị gia Nhật, ngân hàng trung ương hàng đầu và những công ty lớn trong nhiều năm. Đây là sự tiết lộ mới nhất về việc Hoa Thịnh Đốn rình mò các đồng minh. “
Vụ tình báo Mỹ nghe lén thủ tướng Đức, tổng thống Pháp, mướn tình báo Úc nghe lén tổng thống Nam Dương, mướn tình báo Tân Tây Lan nghe lén Việt Nam còn nóng hổi, nay lại đổ bể ra vụ nghe lén Nhật Bản là một trong đồng minh thân thiết nhất của mình. 

Nếu các quốc gia chậm tiến Á-Phi mà làm thế chắc đã bị lên án là phi đạo đức - vì đã là đồng minh, bạn bè thân thiết tại sao nghe lén nhau?  Chuyện này dạy chúng ta một bài học rằng đồng minh thì cứ đồng minh, nhưng tin đồng minh có ngày mất nước!

-AP (United Nations) ngày 1/8/2015: ”Ngoại Trưởng Ukraine kêu gọi Nga tiến tới thương thảo thật sự về ngừng bắn và ổn định cho vùng Miền Đông đổ nát vì chiến tranh với cuộc bầu cử công bằng có quốc tế giám sát.”

Nếu các phần tử cực hữu Kiev nghĩ được điều này sớm hơn thì đã không xảy ra cuộc đảo chính với sự hỗ trợ của Mỹ và NATO lật đổ Tổng Thống Yanukovych sau đó mất Crimea và nguy cơ hai vùng Donetsk và Gugansk ly khai để trở thành hai quốc gia riêng. Không có gì ngu dại cho bằng chuyện trong nhà lại nhờ hàng xóm giải quyết. 

Chìa khóa giải quyết cuộc khủng hoảng Ukraina là Nga và dân chúng Miền Đông chứ không phải đem quân NATO hay lính Mỹ vào đây. Tất cả các chính trị gia cực hữu ở Kiev không hiểu được Ukraina là “vùng trái độn” mà Mỹ và NATO muốn dùng nó để thọc một mũi nhọn vào yết hầu Nga. Còn Nga thì  muốn vùng này trung lập để làm hàng rào an ninh cho mình. 

          Do đó Nga sẽ phản ứng tới cùng để không cho Ukraina lọt vào tay Mỹ hay NATO cũng giống như Mỹ sẽ phản ứng tới cùng để không cho Mễ Tây Cơ hay Gia Nã Đại lọt vào tay Hoa Lục hay Nga. Cuộc cấm vận Mỹ và Âu Châu áp đặt lên Nga đã hơn một năm rưỡi, dù khốn đốn nhưng Nga chưa chết, nhưng đất nước Ukraine tan nát, ngày càng rối beng khi nhóm vũ trang cực cực-hữu ở Miền Tây đã nổ súng vào quân chính phủ và có nguy cơ biến thành một lực lượng vũ trang riêng. Nay Kiev kêu gọi một cuộc đàm phán để chấm dứt chiến tranh khiến cả triệu người phải rời bỏ cửa nhà là điều tốt lành.

             Nhưng làm thế nào để nhóm cực cực-hữu chấp nhận giải pháp hòa bình sau đó “phi liên kết hóa” Ukraina là vấn đề vô cùng nan giải. Ngay khi nổ ra cuộc khủng hoảng Ukraine, cả thế giới đều thấy chỉ có giải pháp trung lập hóa giống như Phần Lan (Finlandization) (*) mới đem lại hòa bình vĩnh viễn cho Ukraina, nhưng nhóm cực hữu ở Kiev lại không thấy. Do đó muốn lãnh đạo đất nước để được gọi là “yêu nước” trước tiên phải biết đất nước mình là ai? Mạnh hay yếu? 

Chung quanh mình là ai? Mạnh hay yếu? 

Nếu đất nước mình nhỏ xíu nằm bên cạnh một đại cường khổng lồ mà mình lại liên kết với một đại cường ở xa để chống lại thì chẳng khác nào lao đầu vào cột đá. Chẳng hạn bây giờ Kampuchia liên kết với Trung Quốc để thù nghịch hay tấn công Việt Nam thì bảo đảm 100% sớm muộn đất nước Kamphuchia sẽ nát như tương dù có cả trăm ngàn cố vấn Tàu ở đó. Những cuộc biểu tình của nhóm cực cực-hữu mới đây đòi tiến hành một “đợt cách mạng thứ hai” cho Ukraina báo hiệu một thảm họa cho chính quyền Kiev.

-AFP ngày 4/8/2015: Với tiêu đề “Căng thẳng Biển Đông Bùng Phát Tại Hội Nghị An Ninh Á Châu” (South China Sea tensions flare at Asia security talks) bản tin cho biết việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo trên đó thiết lập các căn cứ quân sự đã là trọng tâm của hội nghị về an ninh hàng năm bao gồm 10 quốc gia. Nhưng Hoa Lục không muốn vấn đề này được đưa ra thảo luận trong hội nghị nhưng lập tức gặp sự phản đối của Phi Luật Tân và Việt Nam. 

Theo ngoại trưởng Mã Lai, cho dù Trung Quốc phản đối nhưng vấn đề xung đột tại Biển Đông đã được ráo riết thảo luận tại hội nghị. Ô. John Kerry sau cuộc dừng chân ngắn tại Tân Gia Ba sẽ tới Kuala Lumpur để gặp gỡ bên lề với Ô. Vương Nghị vào ngày Thứ Tư 5/8/2015.” Còn theo VnPlus, “Về tình hình Biển Đông, các Bộ trưởng bày tỏ quan ngại sâu sắc về những diễn biến phức tạp gần đây trên thực địa, cho rằng những hành động này đã làm suy giảm lòng tin, gia tăng căng thẳng, đe dọa hòa bình, ổn định và an ninh ở Biển Đông.” Thế nhưng theo AFP ngày 5/8/2015, Tướng Tanasak- Bộ Trưởng Ngoại Giao Thái Lan đã xuất hiện bên cạnh Ô. Vương Nghị trong cuộc họp báo chung. Trả lời câu hỏi của báo chí về liên hệ ngoại giao giữa  Thái Lan và Trung Quốc, Tướng Tanasak nói rằng, “ Ngài Vương Nghị đây rất đẹp trai và dễ thương. Nếu tôi là đàn bà chắc tôi đã “phải lòng” ông ấy rồi.”

 Tướng Tanasak còn nói thêm, “Mối liên hệ giữa Thái Lan và Trung Quốc có hơn 1000 năm nay. Chúng tôi rất thân, thân hơn là tình bạn, chúng tôi là anh em bà con theo chiều dài lịch sử. Chúng tôi không nói về ngoại giao, chúng tôi nói chuyện với nhau như cá nhân, như gia đình và như tình bạn.”

Trước lời tuyên bố có vẻ như “nịnh bợ” Trung Quốc như thế, các quốc gia Đông Nam Á phải coi chừng đã đành mà Hoa Kỳ cũng sẽ không vui vì trong suốt cuộc Chiến Tranh Lạnh và Chiến Tranh Việt Nam, Thái Lan là đàn em thân tín của Mỹ, nay quay lưng với Hoa Thịnh Đốn. Sự kiện này có thể xuất phát từ những nguyên do sau đây:

-Mũi giáo nhân quyền của Mỹ chĩa vào Thái Lan sau cuộc đảo chính của Tướng Prayuth Chan-ocha năm 2014 đã làm tập đoàn quân sự tức giận từ đó quay qua Trung Quốc tìm chỗ dựa.
-Ảnh hưởng lớn mạnh của Trung Quốc về các phương diện kinh tế, tài chính và quân sự lan rộng toàn cầu mà Mỹ không có khả năng kiềm chế, trong khi đó Thái Lan lại có chung biên giới với Trung Quốc khiến Thái Lan phải thay đổi chính sách ngoại giao vừa để phát triển vừa sinh tồn.

-Theo các tạp chí kinh tế/tài chính thế giới, hiện nay Việt Nam đã qua mặt Thái Lan, Nam Dương, Mã Lai và Tân Gia Ba về kỹ nghệ và xuất cảng hàng chế tạo. Sức mạnh quân sự Việt Nam cũng vượt trội Thái Lan và nổi bật lên như một quân đội hùng mạnh nhất Đông Nam Á. Thái Lan bề ngoài “hợp tác chiến lược” với Việt Nam nhưng bên trong - quốc gia mà Thái Lan đố kỵ và gờm nhất Đông Nam Á vẫn là Việt Nam. Hơn thế nữa sự quá chú ý của Mỹ vào Việt Nam để biến Việt Nam thành trọng tâm của kế hoạch “Xoay Trục” làm Thái Lan ghen tỵ bởi vì sau Hiệp Ước TTP, tư bản Mỹ sẽ ào ạt đổ vào Việt Nam. 

Thái Lan đi với Hoa Lục là sách lược đề phòng và kiềm chế Việt Nam lâu dài sau này. Xin nhớ cho, trong lịch sử Thái Lan đã hai lần đem quân vào Việt Nam. Lần thứ nhất Gia Long rước hai vạn quân Xiêm-La đánh Vua Quang Trung. Lần thứ hai Thái Lan cử Sư Đoàn Mãng Sà Vương tham chiến tại Việt Nam theo lệnh của Mỹ. Theo các nhà nghiên cứu chính trị thế giới, Thái Lan nổi tiếng là “gió chiều nào theo chiều ấy” tức kẻ nào mạnh thì theo.

-AP ngày 5/8/2015: Trong cuộc gặp gỡ giữa Ô. John Kerry và Vương Nghị nhân Hội Nghị An Ninh Á Châu tổ chức tại Kuala Lunpur, AP tường trình, “Hoa Kỳ và Trung Quốc đụng độ vào ngày Thứ Tư về vấn đề ai gây ra căng thẳng mỗi lúc mỗi gia tăng trong cuộc tranh chấp lãnh thổ tại Biển Đông khi Hoa Thịnh Đốn yêu cầu phải ngưng các hoạt động tạo nguy hiểm trong khi Trung Quốc lại nói rằng những nước không ở trong cuộc không được can thiệp vào.” 

Đúng là “ông nói gà, bà nói vịt” không ai chịu ai. Có lẽ phải dùng vũ lực để giải quyết chăng? Trong khi đó AFP nói rằng,”Các quốc gia Đông Nam Á cãi cọ nhau về Tuyên Bố Biển Đông” (SE Asian nations wrangle over South China Sea statement) không thống nhất được với nhau về ngôn từ cứng rắn lên án việc Trung Quốc xây dựng các đảo nhân tạo. Điều này cho thấy ảnh hưởng mạnh mẽ của Hoa Lục lên một số các quốc gia Đông Nam Á.

-AP ngày 6/8/2015: “John Kerry vào Thứ Năm 6/8/2015 đã tới Việt Nam để kỷ niệm 20 năm thiết lập bang giao sau khi ghé qua Ai Cập, Qatar, Tân Gia Ba và Mã Lai và gặp gỡ các giới chức cao cấp nhất của Việt Nam vào Thứ Sáu và nói chuyện về mối bang giao Việt-Mỹ. Mặc dù đã tái lập bang giao, gia tăng thương mại, giáo dục và trao đổi văn hóa, Hoa Kỳ vẫn quan tâm đến thành tích nhân quyền của Việt Nam. 

Các giới chức Hoa Kỳ nói rằng Ô. John Kerry có thể sẽ đề cập vấn đề này và thúc giục cải thiện. Ông cũng chú ý đến việc thảo luận về những tiến bộ đã đạt được trong việc mở Đại Học Fulbright- một đại học tư (độc lập) đầu tiên cho ngành giáo dục cao cấp của xứ sở này. Ngoài ra Ô. John Kerry cũng sẽ nhấn mạnh đế việc Hoa Kỳ trợ giúp Việt Nam bảo vệ và tuần tra lãnh hải của mình. Tại Kuala Lumpur Ô. John Kerry nói rằng Hoa Kỳ không chấp nhận bất cứ sự hạn chế lưu thông nào trên Biển Đông.” Theo Miami Herald ngày 7/8/2015, “Trong buổi gặp gỡ với các giới chức dân sự và thương mại tại Hà Nội Ô. John Kerry nói rằng nếu không có tiến bộ về nhân quyền thì việc bán vũ khí sát thương vẫn còn nguyên đó.”

Theo tôi, liên kết việc tháo gỡ toàn bộ lệnh cấm vận vũ khí với tiến bộ nhân quyền chỉ là cách nói cho vui. Cản trở chính ở đây là Hoa Kỳ sợ rằng nếu bán vũ khí sát hại cho Việt Nam sẽ gây căng thẳng thêm ở Biển Đông tức chọc giận Trung Quốc - điều mà Hoa Kỳ chưa dám làm. Chứ nếu thấy cần thiết và tình hình nguy cấp thì Hoa Kỳ sẽ viện trợ ồ ạt, cho không vũ khí tối tân như đã làm trong thời kỳ Chiến Tranh Lạnh hoặc mới đây trong chiến tranh Iraq…chứ nói gì đến chuyện mua bán. 

Chính vì hiểu rõ tâm lý Mỹ cho nên Việt Nam cũng chẳng mặn mà gì với việc yêu cầu Mỹ dỡ bỏ lệnh cấm vận vũ khí và vẫn tiếp tục dựa vào Nga để xây dựng sức mạnh quân sự của mình. Vài tàu tuần duyên mà Mỹ viện trợ cho Việt Nam chỉ giúp tăng cường thêm khả năng tuần tra trên biển chứ làm sao đánh bại được cuộc tấn công bằng hải quân của Hoa Lục? Chờ Mỹ tháo bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương - thì Việt Nam chết từ lâu rồi. Hiện nay các nhà bình luận quân sự thế giới và cả Trung Quốc nữa đều cho rằng sức mạnh răn đe của Việt Nam chính là hệ thống hỏa tiễn phòng thủ bờ biển di động, sáu tầu ngầm Hố Đen Kilo, hai khu trục hạm tàng hình Gepard 3.9… chứ không phải mấy tầu tuần tra hay máy bay do thám P-3C Orion của Mỹ.

-VOA tiếng Việt ngày 9/8/2015: Trước mối đe dọa từ Trung Quốc, Việt Nam theo chiến lược hợp tác chiến lược với hầu hết các quốc gia Đông Nam Á. VOA tiếng Việt đã tường trình về chuyến công du Mã Lai của Ô. Nguyễn Tấn Dũng như sau, “Về những diễn biến gần đây ở Biển Đông, ông Dũng tuyên bố tại cuộc họp báo ở Kuala Lumpur: Hai  bên cùng chia sẻ quan ngại sâu sắc trước những diễn biến gần đây về bồi đắp, xây dựng, trên quy mô lớn các đảo đá tại biển Đông, trái luật pháp quốc tế, và thỏa thuận khu vực, làm xói mòn lòng tin, ảnh hưởng nghiêm trọng tới hòa bình, an ninh và ổn định tại khu vực; đồng thời tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, an ninh, an toàn và tự do hàng hải và hàng không ở biển Đông. Hai bên nhấn mạnh sự cần thiết của việc các bên liên quan bảo đảm thực hiện đầy đủ và hiệu quả tuyên bố ứng xử của các bên ở Biển Đông, DOC”. Trong khi đó, Thủ tướng Malaysia Najib Razak nói rằng Hà Nội và Kuala Lumpur sẽ hợp tác chặt chẽ để duy trì sự thống nhất cũng như trọng tâm của ASEAN cũng như bảo đảm sự tuân thủ toàn diện đối với tuyên bố ứng xử của các bên ở biển Đông. Hai bên đã nâng quan hệ ngoại giao lên thành hợp tác chiến lược.”

-AP (Manila) ngày 12/8/2015: Đại Sứ Trung Quốc tại Phi Luật Tân nói rằng Trung Quốc tôn trọng tự do hàng hải nhưng không cho phép nước ngoài lợi dụng quyền này để đưa tàu chiến và máy bay xâm phạm lãnh thổ của Bắc Kinh. Ông Zhao Jianhua nói rằng các lực lượng của Trung Quốc đã cảnh cáo máy bay do thám P-8A của Hoa Kỳ không được xâm nhập lãnh thổ của Trung Quốc khi chiếc máy bay này tiến vào khu vực mà Trung Quốc chiếm giữ trong vùng biển còn tranh chấp ở Trường Sa.” Theo Reuters cùng ngày, “Bộ Trưởng Ngoại Giao Anh Quốc Philip Hammond tại Bắc Kinh, sau chuyến viếng thăm Nhật Bản đã kêu gọi tự do hàng hải và hàng không trên vùng đang tranh chấp tại Biển Đông, nhưng lại không chỉ trích Hoa Lục là nước đã nằng nặc khẳng định chủ quyền lãnh thổ trên vùng này khiến gây bực tức cho các nước làng giềng và Hoa Kỳ.”

Ông Anh Quốc này cũng khôn lắm. Mặc dù đi theo Mỹ mọi chuyện, nhất là vấn đề Trung Đông, nhưng đụng tới vấn đề Biển Đông thì lại hơi “ne né” vì đang cần tiền của Ô. Tập Cận Bình đầu tư vào nước Anh.

-The National Interest ngày 12/8/2015: “ Trong bản tin phổ biến báo chí, Chỉ Huy Không Quân Tấn Công Toàn Cầu (U.S. Air Force Global Strike Command) Hoa Kỳ đã đưa ba máy bay ném bom tối tân nhất tới Guam. Ba máy bay B-2 và 225 binh sĩ đã được triển khai từ Căn Cứ Không Quân Whiteman, Missouri tới căn cứ Không Quân Anderson, Guam vào ngày 7/8/2015 để tiến hành những cuộc tập trận cho quen với những hoạt động tại vùng Thái Bình Dương.”
Hai chữ “cho quen” (familiarization) tức là chuẩn bị đánh nhau đây. Chữ nghĩa của Tây Phương dùng tế nhị lắm đó.
-AP (Subic, Philippines) ngày 14/8/2015: “Bộ Trưởng Quốc Phòng Phi Luật Tân Voltaire Gazmin

tiến hành kế hoạch mở những căn cứ quân sự tại Vịnh Subic, đối diện với vùng tranh chấp ở Biển Đông cho dù
thỏa hiệp đề nghị quân đội Hoa Kỳ hiện diện tại Phi không thành tựu. Dự án được tiến hành cách đây hai năm
cho phép phi cơ chiến đấu và tuần dương hạm có thể phản ứng nhanh hơn trước những tình huống bất ngờ xảy ra ở vùng biển tranh chấp. Quyết định này được đưa ra giữa lúc căng thẳng leo thang giữa Hoa Lục, Phi Luật Tân và bốn quốc gia khác.”

Nhận Định
Trong nửa tháng qua, tình hình Biển Đông và thế giới rối như canh hẹ và tiến dần tới bờ vực chiến tranh thì nước Mỹ đang bước vào mùa tranh cử và cũng là “mùa chia rẽ”. Nước Mỹ tê liệt, yếu như “con cua lột” với nhiều màn tranh cử rất dân chủ, rất nhiêu khê, hấp dẫn và người ta chờ đợi nhiều đòn bẩn, nhiều thủ đoạn tàn độc sẽ được tung ra để triệt hạ đối thủ và “giành ghế” …thì vào ngày 3/8/2015, The Huffington Post đưa ra bài viết, “Jimmy Cater đúng khi nói rằng Hoa Kỳ không còn là quốc gia dân chủ nữa” (Jimmy Carter Is Correct that the U.S. Is No Longer a Democracy) đã có đoạn như sau, “Vào 28 Tháng Bảy, Thorn Hartmann đã phỏng vấn cựu Tổng Thống Jimmy Carter, và vào cuối chương trình (như thể câu hỏi to lớn này chỉ là điều xảy ra quá muộn màng) rằng ý kiến của ông thế nào về phán quyết Citizen United năm 2010 và phán quyết McCutcheon năm 1014, cả hai phán quyết này đều do năm thẩm phán thuộc Đảng Cộng Hòa trong Tối Cao Pháp Viện. Hai phán quyết lịch sử này cho phép số tiền bí mật vô giới hạn (bao gồm cả tiền của nước ngoài) đổ vào Hoa Kỳ trong những chiến dịch tranh cử và vận động pháp lý. Carter đã trả lời, “Nó vi phạm yếu tính đã tạo ra Hoa Kỳ như là một quốc gia vĩ đại vì hệ thống chính trị của nó. 

Ngày nay hệ thống này chỉ là một tập đoàn chính trị do các đầu sỏ chỉ huy với sự đút lót vô giới hạn đang là yếu tính/điểu kiện để được đảng đề cử hay để được bầu làm tổng thống. Điều này áp dụng luôn cho cả các cuộc bầu cử thống đốc, thượng nghị sĩ và dân biểu Hoa Kỳ. Do đó, giờ đây chúng ta đã và đang chứng kiến sự đổ vỡ của hệ thống chính trị của chúng ta, nó như là sự trả ơn/tưởng thưởng cho những người đã đóng góp lớn lao cho chiến dịch tranh cử, là những người mong muốn và kỳ vọng và đôi khi nhận được những ân huệ cho chính họ sau khi bầu cử kết thúc…

Giờ đây, những người đang đảm nhiệm chức vụ của Dân Chủ và Cộng Hòa coi sự đóng góp vô giới hạn đó là mối lợi lớn cho chính họ. Một vài người đã ở trong Quốc Hội có nhiều việc/chuyện/mối để bán.” (On July 28th, Thom Hartmann interviewed former U.S. President Jimmy Carter, and, at the very end of his show (as if this massive question were merely an aftethought), asked him his opinion of the 2010 Citizens United decision and the 2014 McCutcheondecision, both decisions by the five Republican judges on the U.S. Supreme Court. These two historic decisions enable unlimited secret money (including foreign money) now to pour into U.S. political and judicial campaigns. Carter answered: "It violates the essence of what made America a great country in its political system. Now it's just an oligarchy with unlimited political bribery being the essence of getting the nominations for president or being elected president. And the same thing applies to governors, and U.S. Senators and congress members. So, now we've just seen a subversion of our political system as a payoff to major contributors, who want and expect, and sometimes get, favors for themselves after the election is over. ... At the present time the incumbents, Democrats and Republicans, look upon this unlimited money as a great benefit to themselves. Somebody that is already in Congress has a great deal more to sell.")

Danh từ “chính trị đầu sỏ” (oligarchy) dùng để chỉ một nền cai trị trong đó người dân được đi bỏ phiếu để thể hiện “dân chủ” nhưng thực tế lại bị nắm đầu bởi những tài phiệt qua số tài chính khổng lồ đổ vào chiến dịch tranh cử khiến người dân bị cuốn hút, nhào nặn, dẫn dụ bởi những gì truyền thông nói, thống kê thăm dò cho biết và kỹ nghệ quảng cáo tinh vi. Hiện nay Ukraine cũng đang bị cai trị bởi một hệ thống chính trị đầu sỏ.

Trong khi đó tại Thái Lan, theo AFP ngày 12/8/2015: “Tướng Prayut Chan-O- Cha  đứng đầu tập đoàn lãnh đạo quân phiệt tuyên bố ông có thể bổ nhiệm em trai Preecha Chan-O-Cha vào chức vụ tư lệnh, chức vụ cao cấp nhất quân đội của một nước chuyên đảo chính.” Đây rõ ràng đây là hành vi khởi đầu của chế độ gia đình trị.
Từ chuyện “dân chủ đầu sỏ” ở Mỹ, chuyện độc tài quân phiệt Thái Lan, chúng ta thử nhìn qua ông bạn láng giềng Kampuchia xem quyền lực của Ô. Hun Sen ở đây được xây dựng như thế nào?

Theo SohaNews, “Con trai cả Hun Manet tốt nghiệp West Point năm 1999, được thăng cấp trung tướng, hiện phụ trách lực lượng chống khủng bố thuộc Bộ Quốc Phòng Campuchia kiêm phó chỉ huy đơn vị cận vệ riêng của ông Hun Sen. Con trai thứ Hun Manit, 31 tuổi vừa được thăng từ đại tá lên chuẩn tướng và hiện đang là một lãnh đạo cao cấp của ngành tình báo quân đội. Ông già vợ cậu ấm này là Tư Lệnh Cảnh Sát Quốc Gia từ 1994-2008. 

Cậu út Hun Many 30 tuổi (từng du học Mỹ, Pháp và Australia) là dân biểu quốc hội, hiện là Phụ Tá Chánh Văn Phòng Nội Các, đồng thời là người lãnh đạo Hội Thanh Niên của đảng cầm quyền. Ông già vợ cậu ấm này là phó thủ tướng của Ô.Hun Sen. Còn các cô con gái cưng cũng lấy chồng thật môn đăng hộ đối. Quyền lực của gia đình Thủ tướng Hun Sen còn được củng cố qua các cuộc hôn nhân. Hun Kimleng - cháu gái gọi ông Hun Sen bằng chú ruột kết hôn với Thống Tướng Neth Savoeun- Tổng Cục Trưởng Tổng Cục Cảnh Sát Campuchia. Trong khi đó cô Hun Mali là con dâu của Sok An- một chính trị gia lão luyện, người được coi là cánh tay phải của ông Hun Sen và hiện là Phó Thủ Tướng. Sau hết, một ông cháu rể khác cũng giữ một chức vụ kha khá là thống tướng cảnh sát. “ Ai dám nói  Ô. Hun Sen khờ dại?

Thời đại nào, nơi nào cũng vậy, muốn củng cố uy quyền thì chỉ có ba cách: Dùng người trong đảng, dùng thủ hạ, bạn bè thân tín hoặc giao cho con cháu mình. Bạn bè hoặc thủ hạ thân tín còn có khi phản chứ con cháu làm sao phản? Thời buổi khó khăn bây giờ có quá nhiều đối lập muốn lật đổ hoặc “cưa ghế” mình để ngồi vào đó, thôi thì theo chính sách “gia đình trị” cho chắc ăn. Dân chủ tự do, tơ lơ mơ mất mạng như chơi. Xin ngả nón chào Ô. Hun Sen rồi nay cả ông Tướng Chan-O-Cha nữa.

Còn ở Mỹ có “gia đình trị” không? Xin thưa, “có” nhưng “văn minh” hơn một tí: Bố làm tổng thống, con trai làm tổng thống rồi em trai làm tổng thống. Hoặc chồng làm tổng thống rồi vợ làm tổng thống rồi sau đó con gái làm tổng thống…Rồi thì các cháu làm dân biểu, thượng nghị sĩ, thống đốc tiểu bang, đại sứ… cho vui. 

Cuối cùng mấy ông bà này tạo thành một dòng họ cai trị “dynasty” giống như dòng họ Nehru ở Ấn Độ; Tôn Dật Tiên, Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc ở Đài Loan; Lý Quang Diệu, Lý Hiển Long ở Tân Gia Ba…cho đến khi dân chúng chán thì thôi. Cái ghế quyền lực dường như có dán keo nguyên tử. Hễ ai đã ngồi vào thì dính chặt, không thể rời được. Ngồi chán hoặc già quá không ngồi được nữa lại truyền cho con cháu, vợ chồng hoặc anh em ngồi cho sướng. Tự cổ chí kim chỉ có Hứa Do được Vua Nghiêu mời làm hoàng đế Trung Hoa mà xuống suối rửa tai. Sào Phủ cho trâu uống nước nghe được chuyện bèn dắt trâu lên mạn trên vì Hứa Do rửa tai đã làm bẩn nước uống của trâu rồi.

Tuy nhiên nói gì thì nói, vào ngày 14/8/2015, theo AFP và VnExpress, Ô. Hun Sen đã làm một hành động vô cùng can đảm bằng cách ra lệnh bắt giữ Thượng Nghị Sĩ Hong Sok Hour, một “chuyên viên” phá rối biên giới Miên-Việt, vì đăng tải các hiệp ước quốc tế giả mạo liên quan đến biên giới Việt Nam - Campuchia lên trang Facebook của mình. Ô. Hun Sen nói rằng, “Bằng bất cứ giá nào, chính phủ phải có hành động. Đây là hành vi phản quốc, tôi có thể nói như thế. Ông cũng ra lệnh cho sân bay quốc tế Phnom Penh ngăn chặn ông Sok Hour bỏ trốn và yêu cầu các đại sứ quán nước ngoài không can thiệp vào vụ việc.” Theo AP, Ô. Hun Sen đã nói với giọng mạnh mẽ và cảm động, “Đây là tội đưa đến phản quốc. Nếu một cuộc nổi dậy (chống Việt Nam) vì những lời lẽ như vậy và gây chiến với nước láng giềng của chúng ta thì ai chịu trách nhiệm đây?”

Vậy thì,  Ô. Hun Sen dù có “gia đình trị” nhưng ông đã giúp cho đất nước Campuchia không bị chia năm xẻ bảy sau khi Khmer Đỏ xụp đổ và hiện nay đang phải đối đầu với tập đoàn chính trị gia hoạt đầu Sam Raisy kích động hận thù, bài Việt, gây xáo trộn vùng biên giới bằng đủ mọi thủ đoạn đê hèn.
 Kinh nghiệm thế giới cho thấy: Muốn lãnh đạo quốc gia, một là bắt chước chế độ chính trị như Mỹ mà Ô. Carter gọi là “dân chủ đầu sỏ” hoặc như  Nhật Bản, Âu Châu, hai là độc tài. Còn dân chủ  “nửa mùa” thì đất nước sẽ tan nát và chia cắt ngay lập tức. Thế giới bây giờ quá nhiều tài phiệt muốn khuynh loát chính quyền, chính trị gia hoạt đầu, vô lương tâm, chỉ mị dân để “cưa ghế” và kiếm phiếu, sẵn sàng làm tay sai cho ngoại bang mà không cần biết đất nước đi về đâu. 
Đào Văn Bình
(California ngày 15/8/2015)
(*) Finlandization: “Là quan niệm của một quốc gia không thách thức/chống lại một cường quốc láng giềng về mặt chính trị ngoại giao trong khi vẫn giữ nguyên chủ quyền của đất nước” (It referred to the decision of a country not to challenge a more powerful neighbor in foreign politics, while maintaining national sovereignty.)
__._,_.___

Posted by: Binh Dao

Saturday 15 August 2015

Philippines hoài nghi kế hoạch xây cơ sở tìm kiếm cứu hộ của TQ ở Biển Đông

Philippines hoài nghi kế hoạch xây cơ sở tìm kiếm cứu hộ của TQ ở Biển Đông

Tàu nạo vét của Trung Quốc trong vùng biển quanh bãi đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.
Tàu nạo vét của Trung Quốc trong vùng biển quanh bãi đá Chữ Thập, thuộc quần đảo Trường Sa ở Biển Đông.

14.08.2015
Bộ Quốc phòng Philippines nêu nghi vấn về ý định Trung Quốc muốn xây các cơ sở tìm kiếm cứu hộ trên các hòn đảo nhân tạo mà Bắc Kinh dựng lên ở Biển Đông.
Truyền thông Philippines ngày 14/8 dẫn lời phát ngôn nhân Bộ Quốc phòng, ông Peter Paul Galvez, bày tỏ hoài nghi ‘Các cơ sở tìm kiếm cứu hộ này cho ai, chẳng lẽ cho tàu bè của chúng ta vốn đang bị họ đe dọa phá hủy hay sao?’.
Trước đó, đại sứ Trung Quốc Triệu Giám Hoa tuyên bố các cơ sở Bắc Kinh định xây trên các đảo nhân tạo nhằm ủng hộ quyền tự do hàng hải và các nỗ lực tìm kiếm cứu hộ trong trường hợp xảy ra tai nạn và các cuộc nghiên cứu khoa học.
Phát ngôn nhân Galvez của Bộ Quốc phòng Philippines tố cáo rằng bất chấp các lời lẽ hứa hẹn thiện chí, Trung Quốc vẫn tiếp tục các hành động lấn lướt chủ quyền bất hợp pháp vì đây vốn dĩ chỉ là các yếu tố quân sự hóa các đảo nhân tạo của Bắc Kinh.
Bộ Quốc phòng Philippines nhấn mạnh Trung Quốc nói một đằng làm một nẻo và bước tiến hiện nay của Bắc Kinh là bước quân sự hóa, cần phải ngăn chặn nếu không sẽ có thể dẫn tới một cuộc khủng hoảng sâu hơn khó lường.

Tàu ngầm Việt Nam mới mua không thực tế?

Nhà nghiên cứu về chiến lược của Đài Loan nói các tàu ngầm Việt Nam vừa mua lại của Nga là ‘không thực tế’.
Nhà nghiên cứu về chiến lược của Đài Loan nói các tàu ngầm Việt Nam vừa mua lại của Nga là ‘không thực tế’.

14.08.2015
Một nhà nghiên cứu về chiến lược của Đài Loan nhận xét rằng các tàu ngầm Việt Nam vừa mua lại của Nga để tăng cường nội lực giữa căng thẳng Biển Đông leo thang là ‘không thực tế’.
Tờ Want China Times ngày 14/8 dẫn nhận định của nhà phân tích Chang Ching, thuộc Viện Nghiên cứu Chiến lược Đài Loan, khuyến cáo rằng Việt Nam nên đo lường giá trị của việc điều động tàu ngầm ra Biển Đông.
Theo ông Chang, trước tiên Việt Nam nên đối mặt với thực tế chính trị là chiến tranh tàu ngầm là điều không khả dĩ ở Biển Đông trừ phi bùng nổ một cuộc chiến trên mọi mặt.
Kế đến, vẫn theo nhà phân tích này, nếu các tàu ngầm của Việt Nam được điều động để phong tỏa khu vực mà các nước chỉ vận chuyển một lượng nhỏ hàng hóa qua lại mà thôi thì các tàu ngầm Việt Nam mua về được sử dụng không hiệu quả.
Thêm vào đó, chuyên gia này cho rằng dùng tàu ngầm để ngăn cản hàng hải ở Biển Đông có thể gây phương hại cho lợi ích kinh tế của nhiều nước, làm tăng thêm sự phản kháng chống lại Việt Nam, đồng thời việc này còn có thể làm thay đổi cân bằng ở Biển Đông và làm gia tăng căng thẳng tranh chấp tại khu vực.
Trước đây trong tháng, hải quân Việt Nam vừa tiếp nhận 2 tàu ngầm điện-diesel lớp kilo của Nga mang tên 184 Hải Phòng và 185 Khánh Hòa.
Theo hợp đồng ký với Nga từ năm 2009, hai chiếc nữa tương tự sẽ được chuyển giao vào năm 2016 giữa những nỗ lực của Việt Nam gầy dựng đội tàu ngầm 6 chiếc lớp kilo để tăng cường khả năng cho hải quân trước các hành động bành trướng chủ quyền của Trung Quốc ở Biển Đông.


Friday 14 August 2015

Giành Lại Thế Chủ Động ở Biển Đông

Giành Lại Thế Chủ Động ở Biển Đông


Đại Tá Michael W. “Starbaby” Pietrucha

5 tháng 8, 2015
 

Làm thế nào để Hoa Kỳ và đồng minh phản công lại sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông 

(Ghi chú của người dịch: bản lược dịch này dùng từ ngữ “Biển Đông” để phù hợp với độc giả người Việt thay vì “Biển Nam Hải / South China Sea” mà tác giả dùng)

Vào ngày 26 tháng Năm, Văn phòng Thông tin Quốc Vụ Viện Trung Quốc phát hành tài liệu Chiến Lược Quân Sự Trung Quốc phiên bản tiếng Anh. Điều đáng lưu ý trong tài liệu này là việc công khai chuyển hóa quân đội Trung Quốc sang thế “phòng thủ tích cực”. Trong các điểm quan trọng là việc nhấn mạnh giành thế chủ động chiến lược, một trong tám công tác chiến lược của quân đội Trung Quốc.

Đây không phải là một diễn biến mới, tuy nhiên những hoạt động gần đây trên Biển Đông cho thấy Trung Quốc đã nắm bắt thế chủ động chiến lược tại vùng biển này. Cách bố trí lực lượng trong vùng cũng cho thấy là Trung Quốc sẽ không từ bỏ thế chủ động này. Nếu Hoa Kỳ có phản ứng thụ động thì càng cho Trung Quốc thấy sự hữu hiệu của thế trận, trong khi đó các giải pháp ngăn chặn cố hữu vừa có tính cách khiêu khích không cần thiết và nhiều phần không hữu hiệu. Một chiến lược toàn diện, hiện đại hóa và tiếp cận dài hạn đặt trọng tâm vào các quốc gia đối tác và không lực Hoa Kỳ có thể tạo cơ hội để Hoa Kỳ tháo gỡ sự bành trướng của Trung Quốc tại Biển Đông và ngăn ngừa lấn chiếm trong tương lai.

Chiến lược đề nghị có ba yếu tố: lập quan hệ phòng thủ mới, xây lực không quân và hải quân của quốc gia đối tác, và hiện đại hóa lực lượng oanh tạc tầm xa.

Địa Dư

Bất cứ thảo luận nào về Biển Đông phải bắt đầu với địa dư. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền gần như trên toàn thể Biển Đông với cái gọi là bản đồ 9 đoạn. Bản đồ này bao phủ lấy toàn bộ các đảo, đá ngầm, san hô, bãi cạn.Trung Quốc và các quốc gia tranh chấp trong vùng chia nhau chiếm đóng các địa điểm này. Một số điểm được bồi đắp thành các đảo nhân tạo với căn cứ quân sự, có luôn cả sân bay.

Tuy giới truyền thông ồn ào về các đảo nhân tạo được quân sự hóa này, chúng có những bất lợi tương tự như hàng không mẫu hạm mà lại chẳng có được yếu tố di động của hàng không mẫu hạm. Quân đội Nhật đã nhận ra điều này trong Thế Chiến Thứ Hai, các lực lượng quân sự trên đảo bị tập trung vào một không gian chật hẹp với vật liệu, đạn dược, nhiên liệu giới hạn. Về khía cạnh quân sự, căn cứ trên đảo nhỏ rất dễ bị cô lập, rất khó phòng thủ và lực lượng quân sự rất dễ bị tấn công. Tuy nhiên trong thời bình thì các căn cứ quân sự này lại hữu hiệu để gia tăng khả năng của Trung Quốc theo dõi, ra tay và đe dọa các quốc gia láng giềng. Thách đố ở đây là làm sao vô hiệu hóa tác động của chúng trong thời bình.

Biển Đông được điều khiển bởi các vùng đất chung quanh nó. Không có tập hợp căn cứ trên các đảo nhỏ nào có thể điều khiển được Biển Đông. Việt Nam, các đảo Borneo, Luzon và Palawan chi phối về mặt địa dư. Về phía nam của Hoàng Sa, Việt Nam và Phi Luật Tân có vị trí thuận lợi hơn trên Biển Đông so với đất liền Trung Quốc hoặc đảo Hải Nam. Các quốc gia với vùng lãnh thổ đáng kể gần đó, như Nam Dương, Mã Lai, Việt Nam, Phi Luật Tân và Brunei có tiềm năng làm giảm bớt một số lợi thế của quân đội Trung Quốc – nhưng chỉ trong trường hợp họ chế ngự được các đơn vị quân đội Trung Quốc.

Một Cấu Trúc Phòng Thủ Mới

Nếu muốn kiềm chế tham vọng của Trung Quốc trên Biển Đông chúng ta phải thay đổi cấu trúc phòng thủ trong vùng. Chỉ có bốn quốc gia có vị trí chế ngự Biển Đông: Trung Quốc, Việt Nam, Mã Lai và Phi Luật Tân. Trung Quốc có quân đội hùng mạnh nhất nhưng với vị trí địa dư kém nhất. Chính sách ngăn chận của Hoa Kỳ có thể được cải thiện rất nhiều với sự tham gia tích cực của một hay nhiều quốc gia láng giềng quan trọng này. Ngay cả khi không có căn cứ quân sự Hoa Kỳ trong vùng nhưng với mối quan hệ phòng thủ vững chắc và thế quân sự cải thiện của các quốc gia đối tác có thể dựng lên một tường thành chống lại bá quyền Trung Quốc.

Việt Nam với ách đô hộ ngàn năm của Trung Quốc trong lịch sử, và còn là nạn nhân gần đây của sự xâm lược Trung Quốc vào năm 1979. Việt Nam còn bị thiệt hại nhân mạng nhiều hơn ai hết trong sự xung đột với Trung Quốc trên Biển Đông. Với vị trí thuận lợi trên Biển Đông, đòi hỏi chủ quyền Hoàng Sa và có nhiều căn cứ tốt, Việt Nam là quốc gia “ăn tiền” nhất để cải thiện mối quan hệ phòng thủ, dầu cho phép hay không cho Hoa Kỳ sử dụng căn cứ quân sự. Tuy nhiên viễn ảnh hợp tác quân sự hiện thời khá giới hạn vì Điều luật 22 CFR 126.1 cấm viện trợ vũ khí sát thương cho Việt Nam. Bỏ lệnh cấm này đối với các hệ thống vũ khí trên biển cho phép gia tăng - tuy còn giới hạn - mối quan hệ phòng thủ với Việt Nam. Thượng nghị sĩ John McCain đã thông báo dự định đệ nạp luật tháo gỡ giới hạn CFR 126.1 đối với Việt Nam.

Mã Lai, hiện thời đã có quan hệ hợp tác an ninh với Hoa Kỳ, kiểm soát phía nam Biển Đông từ đảo Borneo. Trên đảo Borneo có 7 sân bay quân sự quan trọng, đáng giá hơn bất cứ sân bay trên đảo nào của Trung Quốc. Không quân Hoàng gia Mã Lai dùng các loại phi cơ hiện đại của Hoa Kỳ, Nga và Âu châu bao gồm nhiều vai trò khác nhau. Từ góc cạnh phi hành, Mã Lai có một Không Quân tuy nhỏ nhưng đầy khả năng.

Phi Luật Tân là quốc gia duy nhất trong ba quốc gia quanh Biển Đông có ký hiệp ước phòng thủ hỗ tương với Hoa Kỳ từ 1961. Rất tiếc là Không Quân Phi Luật Tân chỉ còn là một bóng mờ của lực lượng mà Hoa Kỳ giúp xây dựng sau cuộc chiến Việt Nam. Mặc dầu có kế hoạch hiện đại hóa 20 năm, Không Quân Phi Luật Tân mất khả năng sử dụng chiến đấu cơ cách đây mười năm và bị tình trạng thiết bị cũ kỹ, hạ tầng kém cõi, hệ thống quân sự xuống cấp, tinh thần suy sút. Tóm lại, không lực Phi chỉ là một lực lượng an ninh nội bộ và Phi Luật Tân hoàn toàn phụ thuộc vào Hoa Kỳ cho việc phòng thủ bên ngoài.

Chiến Lược Con Chồn (Wolverine)

Tiến trình xây dựng sức mạnh của đối tác địa phương để chống cự lại đối thủ bá quyền trong vùng thường được gọi là chiến lược “con nhím” (hedgehog). Con nhím là một thách đố đối với con thú nào muốn xơi tái nó. Con nhím không phải là không thể ăn thịt được, nhưng khó quá và không đáng bỏ công so với các chọn lựa khác. Trong khi đó con chồn là một con vật dữ dằn, hiểm độc chẳng những khó xơi tái mà còn nguy hiểm khi đến gần và tốt nhất là nên tránh xa. Chiến lược “Con Chồn” nhằm cải thiện khả năng phản công trên không và trên biển của các quốc gia đối tác. Đây là một phần chìa khóa để vô hiệu hóa thế chủ động của Trung Quốc.

Trung Quốc đã ký kết vào Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS) nhưng lại cho rằng nó không áp dụng vào Biển Đông. Cho đến nay không quốc gia nào trong vùng kháng cự lại sự xâm lấn của Trung Quốc bằng vũ lực. Điều này chỉ có thể thay đổi nếu các quốc gia trong vùng đủ mạnh để khiến cho sự lấn chiếm của Trung Quốc phải trả giá cao hoặc bị đẩy lùi. Không lực từ các căn cứ trên đất liền là lực quyết định vì Việt Nam, Phi Luật Tân và Mã Lai đều có tiềm năm chiếm thượng phong trên không trong vòng 200 hải lý từ bờ biển, trong khi đó Trung Quốc phải điều động phi cơ từ khoảng cách xa hơn. Nếu các quốc gia quanh Biển Đông có khả năng không lực và hải lực mạnh, chẳng những họ có thể chống cự được sự lấn chiếm của Trung Quốc mà còn có thể chiếm lại và gây tổn thất cho các hành động xâm lấn của Trung Quốc.

Vai trò của Hoa Kỳ xây dựng khả năng tác chiến trên không và trên biển cho các quốc gia đối tác là điều cực kỳ quan trọng nhưng vào thời điểm này lại không khả thi. Hoa Kỳ không có hệ thống không lực hoặc hải lực nào vừa túi tiền, chuyển giao được cho các đối tác trong vùng để mua, điều hành và quản trị với số lượng vừa đủ. Trong thập niên 70, Không Quân Hoa Kỳ có cung cấp cho các không quân trên thế giới một số phi cơ. Nay chúng đã cũ và sắp sửa hết thời hạn phục vụ. Hoa Kỳ lại không có nhiều chọn lựa để cung ứng. Các loại phi cơ F-16, F-18, F-15E quá đắt tiền. Nếu tìm cách áp dụng chiến lược Con Chồn chúng ta lại thiếu công cụ - Hoa Kỳ gặp khó khăn trong việc cung cấp vũ khí, huấn luyện hữu hiệu, và quan trọng hơn hết - một mối quan hệ dài hạn để giúp quân đội bạn trở thành một đồng minh then chốt.

Để có thể thực hiện Chiến Lược Con Chồn thành công, chúng ta phải giải quyết khả năng cố vấn không lực và chọn ra những loại phi cơ thích hợp. Quan trọng hơn hết, chúng ta phải kèm theo nỗ lực cố vấn bằng một cam kết dài hạn tựa như Chương trình Colombia tuy mất cả một thập niên, nhưng kết quả là một không quân thiện chiến của Colombia.

Oanh Tạc Cơ

Yếu tố cuối cùng là một lực lượng oanh tạc cơ hiện đại có tầm xa, bao gồm các loại LRS-B, B-2 và B-52J cập nhật. Với khoảng cách rộng lớn trong vùng Thái Bình Dương và với tầm hoạt động xa của hỏa tiễn Trung Quốc đòi hỏi căn cứ oanh tạc cơ ở bên ngoài vùng. Oanh tạc cơ có thể hoạt động từ các căn cứ quân sự của Không Quân Hoàng Gia Anh tại Tindall hoặc Diego Garcia. B-52J có thể bay trực tiếp đến Biển Đông không cần tiếp tế nhiên liệu trên không từ lãnh thổ của Hoa Kỳ như Wake, Guam hay ngay cả từ Hawaii.

Các oanh tạc cơ có khả năng cô lập các đảo quân sự bằng cách bao vây bằng thủy lôi. Các căn cứ quân sự xây trên các đảo nhân tạo khó có thể củng cố bằng hầm dưới đất. Với sự tập trung lực và vật liệu trên một đảo nhỏ hẹp, việc oanh tạc tiêu hủy các căn cứ này sẽ có tác động lớn.

Kết Luận

Sự lấn chiếm đều đặn của Trung Quốc trên Biển Đông đặt Hoa Kỳ và các quốc gia đối tác trong vùng ở thế bất lợi. Tiến trình tiệm tiến của Trung Quốc dựa nhiều vào vị trí thuận lợi và hăm dọa vũ lực. Hành vi của Trung Quốc không ai làm gì được là vì các quốc gia trong vùng không có các giao kết phòng thủ và vì sự chênh lệch về tương quan lực lượng. Tuy nhiên, Việt Nam, Mã Lai và Phi Luật Tân có lợi thế đáng kể về địa dư hơn Trung Quốc ở chỗ mỗi quốc gia có thế thượng phong trên một phần của Biển Đông. Cả ba quốc gia hợp lại, được trang bị thích đáng và được Hoa Kỳ hỗ trợ có thể trở thành một lực đối trọng với Trung Quốc trên Biển Động.

Kết hợp của các mối quan hệ phòng thủ cải thiện cùng với khả năng không lực và hải lực do Hoa Kỳ xây dựng được hỗ trợ bởi lực lượng oanh tạc cơ tầm xa của Không Quân Hoa Kỳ đòi hỏi đầu tư về thời gian và nguồn lực đáng kể, nhưng gánh nặng này không rơi một mình vào Hoa Kỳ. Để tái quân bằng vùng Thái Bình Dương, một chiến lược tiếp cận mạnh mẽ là điều cần thiết trong nỗ lực của Hoa Kỳ ngăn chận Trung Quốc và trấn an các đối tác tại Á Châu rằng Hoa Kỳ không chỉ nói miệng. Không lực là một thành phần chủ lực trong chiến lược này và phù hợp với những thách đố trên Biển Động

Về tác giả: Đại Tá Michael W. “Starbaby” Pietrucha là giảng viên về chiến tranh điện tử cho các chiến đấu cơ F-4G, F-15E. Ông từng phục vụ tại Iraq và Afghanistan. Quan điểm của bài viết này là của tác giả và không nhất thiết phản ảnh chính sách chính thức hoặc lập trường của Bộ Không Quân hoặc Chính quyền Hoa Kỳ.

Nguồn: The Diplomat

Trần Thi lược dịch
__._,_.___

Posted by: ly vanxuan 

Mỹ ồ ạt đưa quân và vũ khí hạng nặng My vào biển Đông..


2015-08-06 8:48 GMT-07:00 lan dong <lang1010ok@gmail.com>:

----- Original Message -----
Subject:              Mỹ ồ ạt đưa quân và vũ khí hạng nặng
                           My vào biển Đông...

           MỸ ĐƯA QUÂN VÀ VŨ KHÍ HẠNG NẶNG
                 VÀO 8 CĂN CỨ TẠI BIỂN ĐÔNG


Nguồn tin từ RFI tiết lộ, Hoa Kỳ chính thức yêu cầu Phillipines về việc ĐƯA QUÂN ĐỘI VÀ VŨ KHÍ HẠNG NẶNG CỦA MỸ VÀO 8 CĂN CỨ QUÂN SỰ ở Philippines.


Danh sách các căn cứ đã được xác định:
– 4 căn cứ trên đảo chính Luzon.
– 2 căn cứ khác trên đảo Cebu.
– 2 căn cứ trên đảo Palawan ở miền Tây Philippines, nằm gần quần đảo Trường Sa đang tranh chấp tại Biển Đông.

Theo hãng tin Reuters, các vũ khí hạng nạng bao g  m:
– Tàu khu trục nguyên tử tàng hình hiện đại.
– Máy bay tàng hình ném bom nguyên tử .
– Máy bay chiến đấu tàng hình siêu tối tân .
Trong cùng diễn biến “nóng” này, tờ Nguyệt San “Lợi Ích Quốc Gia” của Mỹ ngày 23/4 / 2015 đưa tin rằng :
KHÔNG QUÂN MỸ TUYÊN BỐ TẬP TRUNG TẤT CẢ MÁY BAY NÉM BOM HẠNG NẶNG VÀO BỘ TƯ LỆNH TẤN CÔNG TOÀN CẦU để đối phó với Trung Quốc

Một trong những lý do khiến Mỹ ào ạt đổ quân vào Đông Nam Á vì Trung Quốc sẽ đưa các máy bay đánh bom hạng nặng ra Hoàng Sa và Trường Sa tại các địa điểm:
– Bãi đá Chữ Thập (Trường Sa): Trung Quốc đã hoàn thành đường băng dài hơn 1.300m. Hiện họ đang tiếp tục xây dựng thêm để kéo dài đường băng đạt mức 3.110m.
– Đảo Phú Lâm (Hoàng Sa): Nó đang mở rộng đường băng dài 2.300m hiện tại để thành đường băng dài 3.000m.

Không ngồi chờ Trung Quốc triển khai hỏa lực, Mỹ đã chính thức bao vây Trung Quốc bằng cách tung quân đội và vũ khí hạng nặng trước vào những cứ điểm quan trọng ở biển Đông trước khi trận hải chiến có thể xảy ra....
Liệu chiến tranh thế giới đã khởi đầu , bắt đầu để giải quyết mọi vấn đề trong bối cảnh các bên , các phe không thể nào “thương lượng kiểu hòa bình & nhân nhượng” như hiện nay ??

(Nguồn: Reuters & RFI)
FB Trương Văn Khoa


__._,_.___

Posted by: Nghiem Do 

Tuesday 11 August 2015

Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc làm đảo lộn quy luật hải chiến

Lực lượng dân quân biển của Trung Quốc làm đảo lộn quy luật hải chiến

The Diplomat

       Cùng tác giả:

James Kraska
10 tháng 8, 2015
Việc sử dụng đội ngũ tàu đánh cá làm lực lượng dân quân biển có hệ lụy pháp luật sâu đậm.

Trung Quốc có đội ngũ tàu đánh cá được tổ chức thành một lực lượng dân quân biển với vai trò bán quân sự trong thời bình cũng như thời chiến. Lực lượng dân quân này là một lực lượng không chính quy của hải quân Quân Giải Phóng Nhân Dân Trung Quốc và nó tạo ra nhiều thách đố về chính trị, luật pháp, tác chiến cho đối thủ. Tầm cỡ to lớn của mạng lưới dân quân biển gây phức tạp trên chiến trường, giảm sút tiến trình lấy quyết định của đối thủ và đặt đối phương vào thế khó xử về chính trị. Tất cả điều này khiến cho đối phương phải cẩn trọng khi đối đầu với Trung Quốc trong một cuộc hải chiến hoặc một cơn khủng hoảng hàng hải. Hệ lụy về mặt pháp luật cũng không kém phần sâu đậm.

Lực lượng dân quân biển xóa đi sự phân biệt lâu đời giữa tàu chiến và tàu dân sự trong luật hải chiến. Luật hải chiến bảo vệ các tàu đánh cá ven biển không bị bắt giữ hay bị tấn công trong thời chiến. Mặc dầu tàu chiến có thể giao chiến với những tàu đánh cá dân sự nào đang giúp cho đối phương, tuy nhiên rất là khó để phân biệt đâu là tàu đánh cá dân sự chân chính và đâu là những tàu đánh cá thuộc lực lượng dân quân biển của Trung Quốc. Dầu lực lượng dân quân biển có đóng vai trò tác chiến quan trọng gì hay không đi nữa, sự hiện diện của lực lượng này trên chiến trường tạo ra thế khó xử về tác chiến và pháp luật cho đối phương.

Việc sử dụng tàu đánh cá trong thời chiến không phải là điều gì mới mẻ. Trong cuộc chiến giữa Hoa Kỳ và Tây Ban Nha năm 1898, hải quân Mỹ bắt giữ hai tàu đánh cá của Cuba, nhưng sau đó Tòa Án Tối Cao Pháp Viện Hoa Kỳ ra phán quyết năm 1900 phải thả hai chiếc tàu này. Tòa cho rằng, “Theo truyền thống lâu đời của các quốc gia văn minh và dần dà trở thành luật lệ quốc tế thì các tàu đánh cá ven biển đeo đuổi nghề đánh cá của họ được nhìn nhận là không bị bắt giữ trong thời chiến, từ hàng hóa cho đến thủy thủ đoàn.”

Trong cuộc chiến Việt Nam, Đệ Thất Hạm Đội của Hoa Kỳ cũng bị điêu đứng vì các tàu đánh cá được hòa nhập vào lực lượng tác chiến của đối phương. Vào tháng Chín năm 1964, Bắc Việt dùng tàu đánh cá để báo cáo vị trí của các chiến hạm Hoa Kỳ trong Vịnh Bắc Việt. Theo một tài liệu đã giải mật của cơ quan an ninh quốc gia (National Security Agency) cho thấy có một thông tin gửi đi từ một chiếc tàu không rõ danh tánh đến trạm kiểm soát trên đất liền cùng lúc khi chiến hạm USS Maddox đi ngang hai tàu đánh cá cách đó khoảng hai ngàn mét. Sau đó tàu Maddox bị ba chiếc tàu vũ trang của Bắc Việt gây hấn. Trong suốt cuộc chiến Việt Nam các tàu đánh cung cấp tiếp tế cho quân đội Bắc Việt dọc bờ biển. Các tàu này là một thách đố liên tục cho lực lượng hải quân Hoa Kỳ.

Dùng tàu đánh cá làm lực lượng phụ cho hải quân vi phạm vào nguyên tắc phân biệt – một nguyên lý cốt yếu của luật nhân đạo quốc tế quy định rằng thường dân và các đối tượng dân sự được bảo vệ không bị tấn công. Mục tiêu của nguyên tắc phân biệt là để bảo vệ thường dân và làm giảm tác động của chiến tranh lên họ. Thế nhưng lực lượng dân quân biển của Trung Quốc đã làm mờ đi lằn ranh phân biệt giữa tàu đánh cá và tàu mang chức năng hải quân.

Với 200 ngàn tàu bè, Trung Quốc có một đội ngũ tàu đánh cá lớn nhất trên thế giới và ngành thương mãi này có 14 triệu nhân viên chiếm 25% tổng số trên thế giới. Doanh nghiệp khổng lộ này hoạt động liên kết cùng với hải quân để xúc tiến mục tiêu chiến lược của Bắc Kinh trong vùng biển Nam Hải và Đông Hải. Lực lượng dân quân này từng can dự vào cuộc xâm chiếm quần đảo Hoàng Sa năm 1974, cũng như gây cản trở hải hành của các tàu thăm dò của Hoa Kỳ. Lực lượng này đồng thời hỗ trợ hậu cần cho các chiến hạm Trung Quốc. Thí dụ như vào tháng Năm 2008, tàu dân quân tiếp vận đạn dược và nhiên liệu cho tàu chiến gần tỉnh Chiết Giang.

Các ngư phủ được chỉ định vào các hợp tác xã hoặc các công ty dân sự và được huấn luyện quân sự và giáo dục chính trị nhằm để huy động và thúc đẩy các quyền lợi của Trung Quốc trên mặt biển. Các tàu đánh cá của lực lượng dân quân được trang bị hệ thống điện tử cao cấp bao gồm cả hệ thống truyền tin và ra đa nhằm bổ sung cho hải quân TQ và gia tăng tương kết với các cơ quan khác như Cảnh Sát Biển TQ. Nhiều chiếc tàu còn được trang bị hệ thống hải hành bằng vệ tinh và có thể theo dõi và báo cáo vị trí các tàu khác, và làm nhiệm vụ thâu thập tình báo hàng hải.

Với nhiệm vụ hỗ trợ cho hải quân TQ của lực lượng dân quân biển có thể biến các tàu đánh cá thành những mục tiêu hợp lệ khi có xung đột vũ trang và đưa đến những hệ quả bi thảm cho các ngư phủ chân chính trong vùng. Đây là một thí dụ điển hình của cái gọi là “chiến tranh pháp lý” của Trung Quốc với chủ tâm bóp méo các ý niệm pháp lý để chống chọi lại đối phương. Không như Phi Luật Tân dùng hệ thống luật pháp quốc tế để kiện Trung Quốc, lực lượng dân quân biển khai thác lằn ranh của luật lệ và do đó sẽ đẩy các ngư dân vào thế rủi ro.

Quy luật phân biệt đã thành thông lệ này sẽ tạo áp suất lên Hoa Kỳ và đồng minh trong cách đối xử với các tàu đánh cá Trung Quốc. Phân biệt giữa tàu đánh cá chân chính và tàu dân quân gần như không thể được vì số lượng tàu quá nhiều, mặt biển bao la, và Hoa Kỳ thiếu hệ thống nhận dạng để phân biệt bạn thù. Nếu có chiếc tàu nào của dân quân bị tiêu hủy trong hải chiến sẽ bị Trung Quốc dùng đó để tuyên truyền chống lại đối phương. Ngay cả những phản ứng nhẹ như phá sóng, làm nhiễu thông tin cũng sẽ được khai dụng bởi hệ thống tuyên truyền của Trung Quốc để thâu phục sự cảm thông của các nước trong vùng.

Trong vai trò tăng lực, lực lượng dân quân biển là một thách đố tác chiến đòi hỏi Hoa Kỳ và đồng minh phải tăng cường hệ thống lực lượng, bao gồm từ tàu chiến, tàu ngầm và đặc biệt là các loại máy bay không người lái (drones) và các loại tàu ngầm không người lái để kiềm chế mối đe dọa. Khi mà Bắc Kinh ngày càng hòa nhập lực lượng dân quân biển vào hải quân thì lằn ranh giữa tàu đánh cá dân sự và tàu chiến càng mờ nhạt dần.

James Kraska là giáo sư và giám đốc nghiên cứu của Trung Tâm Stockton Nghiên Cứu Về Luật Quốc Tế, Đại Học Hải Chiến Hoa Kỳ, và tác giả của Quyền Lực Hàng Hải và Luật Biển và Luật An Ninh Hàng Hải Quốc Tế
Nguồn: The Diplomat
Trần Thi lược dịch