Tham
vọng Biển không giới hạn của Trung Quốc
Bùi Hùng/VOV.VN
Phỏng vấn đặc biệt về cuộc xung đột Việt Nam -
Trung Cộng ở biển Đông - (P1)
|
|||||||
|
|
|
|
|
|
||
Preview by Yahoo
|
|||||||
|
|||||||
VOV.VN – “Việc làm của Trung Quốc khiến Trung Quốc sẽ đánh mất
uy tín của chính mình”.
LTS: Trong
những năm gần đây, Trung Quốc luôn có những động thái mạnh trên Biển Đông như
“Yêu sách đường đứt khúc 10 đoạn”, xây dựng trái phép tại nhiều đảo tại Biển
Đông, đặc biệt ở những khu vực thuộc quyền chủ quyền và quyền tài phán của Việt
Nam. Hành động này đã vấp phải sự phản đối của Việt Nam và nhiều nước trên thế
giới, gây ảnh hưởng tới cục diện hòa bình, an ninh, ổn định khu vực.
Loạt bài: “Trung Quốc- lộ trình “độc chiếm” Biển Đông” của VOV.VN sẽ cung
cấp tới bạn đọc thông tin sâu hơn về phản ứng của quốc tế về ý đồ của Trung
Quốc tại Biển Đông trong thời gian qua và dự đoán diễn biến trong thời gian
tới.
Bài 1: Tham vọng Biển không giới hạn của Trung Quốc
Bài 2: Trung Quốc và ý đồ tạo lợi thế thương lượng về Biển
Đông
Bài 3: Lộ trình “chiếm” Biển Đông của Trung Quốc
Bài 4: Biển Đông có thể trở thành khu vực nguy hiểm nhất thế
giới?
Trong quá trình lịch sử phát triển của Trung
Quốc, “chinh phạt” là từ thường trực trong tư duy của các bậc tiền nhân và
nhiều thế hệ lãnh đạo Trung Quốc sau này.
Bản đồ Con đường tơ lụa trên biển (màu xanh)
và trên bộ (màu cam) của Trung Quốc (Ảnh AFP)
Theo nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu, từ đời
Tần mỗi khi có một họ thống nhất Trung Hoa thì lập tức nghĩ đến việc chiếm các
nước nhỏ chung quanh. Việt Nam là nước bên cạnh Trung Quốc cũng không tránh
khỏi qui luật đó và nhiều lần là nạn nhân đau thương của “chủ nghĩa bành
trướng”.
Hành động của Trung Quốc tại Biển Đông ngày
càng lộ rõ những mưu đồ bất chấp luật pháp quốc tế hòng “thâu tóm” Biển Đông
thực hiện mong muốn xây dựng một Trung Hoa mới.
Tuy nhiên, hành động của Trung Quốc hoàn toàn
là hành động cá nhân.
Tham vọng biển cả
Theo khảo sát của nhà nghiên cứu Đinh Kim
Phúc, dựa trên những tấm bản đồ cổ từ năm 1909 trở về trước, người ta thấy tất
cả bản đồ cổ nước Trung Quốc do người Trung Quốc vẽ không có bản đồ nào ghi các
quần đảo Tây Sa, Nam Sa. Tất cả các bản đồ đó đều xác định đảo Hải Nam là cực
nam của biên giới phía Nam Trung Quốc.
Hơn một trăm năm trước, vào cuối thời kỳ nhà
Thanh, Trung Quốc cũng phải đối diện với việc phải bảo vệ Biển và khu vực biên
giới của mình với tư duy “chinh phục những vùng đất mới”. Tuy nhiên, cuộc viễn
chinh “Đông tiến” thời kỳ đó (chiến tranh Nhật-Thanh- theo cách gọi của Nhật
Bản) đã bị thất bại cay đắng mà chiến thắng thuộc về Nhật Bản.Và không hết tham
vọng, sau đó Trung Quốc đã tiến hành thêm một cuộc “Tây tiến”, nhưng Trung Quốc
đã không đạt được kết quả như mong đợi.
Hơn 100 năm đã trôi qua và ngày nay Trung
Quốc lại thiết lập một chiến lược ngoại giao mới xuyên từ “Đông sang Tây”. Phía
Đông giáp với Đại dương là khu vực tập trung nhiều yếu tố đề phát triển, con
đường thương mại, vận chuyển quan trọng nhất không những của Trung Quốc mà của
cả thế giới. Ở khu vực phía Tây nếu như “Con đường tơ lụa” mới được mở ra thì
Trung Quốc sẽ có một thị trường nhiều tiềm năng lớn, mở rộng dư địa trong chiến
lược ngoại giao. Tuy nhiên, Trung Quốc cũng sẽ phải đối mặt với sự de dọa khủng
khiếp của những kẻ khủng bố.
Trong chiến lược ngoại giao “Đông tiến”,
Trung Quốc đã đạt được những thành quả nhất định. So với chiến lược này thì
chiến lược “Tây tiến” có phần hạn chế và do chậm phát triển. Cụ thể là cuối thể
kỷ XX tổ chức hợp tác Thượng Hải được thành lập, trải qua nhiều năm tổ chức này
tuy có có tiếng nói nhất định trong hợp tác khu vực nhưng cũng không làm thay
đổi nhiều địa vị của Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc đã đầy hy vọng mở ra “Con
đường tơ lụa mới” nhằm tăng cường tiềm lực kinh tế, gây ảnh hưởng ra phía Biển,
với hy vọng thâu tóm kinh tế khu vực và thế giới.
Chủ tịch Tập Cận Bình tháng 9/2013 trong
chuyến thăm 4 nước Trung Nam Á đã đề xướng với các nước này về ý tưởng thiết
lập “Con đường tơ lụa mới”, mở ra không gian ngoại giao ở khu vực phía Tây
Trung Quốc thông qua việc tiếp xúc lẫn nhau giữa Trung Quốc và các nước Trung
Á.
Trong “Con đường tơ lụa mới” thì “con đường
tơ lụa trên biển” được Trung Quốc đặc biệt quan tâm, ẩn chứa nhiều tham vọng,
với mục đích tạo ra một trật tự mới trên biển mà các nước, trước hết là các
nước láng giềng ven biển đi theo một quỹ đạo do Trung Quốc điều hành và chi
phối.
Qua việc sử dụng “con đường tơ lụa trên
biển”, Trung Quốc cố gắng tạo ra một hình ảnh đất nước thân thiện, hữu nghị
phục vụ cho sự trỗi dậy và mở rộng ảnh hưởng của mình, tạo cơ hội cho Trung
Quốc thúc đẩy chủ trương “gác tranh chấp, cùng khai thác” để khai thác các tài
nguyên trên biển ở những khu vực mà “con đường tơ lụa trên biển” đi qua, nhất
là nguồn năng lượng dầu, khí đáp ứng nhu cầu “khát” năng lượng của Trung Quốc.
“Con đường tơ lụa trên biển” là để thực hiện
mưu đồ về lãnh thổ và yêu sách biển đảo của Trung Quốc. Thực hiện thành công
sáng kiến “con đường tơ lụa trên biển” sẽ tạo ra “danh chính, ngôn thuận” và
điều kiện thuận lợi cho việc hiện diện ra các vùng biển của Trung Quốc, trước
hết là khu vực Biển Đông, eo biển Malacca, Ấn Độ Dương, giúp cho Trung Quốc mở
rộng ảnh hưởng trên biển và tăng cường ảnh hưởng về quân sự trên biển.
Chính vì vậy những hành động của Trung Quốc
trong thời gian gần đây càng ngày càng tỏ ra “quá đáng” vấp phải sự phản đối
của các nước láng giềng, Mỹ và nhiều nước khác trên thế giới.
Chuyển mâu thuẫn từ bên trong ra bên ngoài
Lý giải về những hành động của Trung Quốc
trong thời gian qua, Đại tá Lê Văn Vị (chuyên gia phân tích quốc tế) cho
rằng có nguyên nhân chủ yếu liên quan tới bối cảnh trong nước Trung Quốc.
Đó là, lãnh đạo Trung Quốc đang tích cực thực hiện chiến dịch chống tham nhũng
mạnh mẽ với phương châm “đả hổ diệt ruồi”, không loại trừ nhân vật nào
nếu có hành vi tham nhũng.
Diệt ruồi có thể không khó nhưng động đến hổ
nhất định có phản ứng. Nhưng qua đây cũng có thể thấy trong nội bộ Trung Quốc
có những cuộc đấu tranh ngầm. Tiếp đó, tại nhiều vùng của Trung Quốc đang bất
ổn, đặc biệt là Tân Cương hầu như năm nào cũng có xung đột. Đó là xung đột giữa
người Hán và người dân tộc. Thậm chí người Tân Cương còn xuống cả Côn Minh,
Quảng Châu… gây ra những vụ bạo lực gây chết nhiều người.
Bên cạnh đó, kinh tế Trung Quốc sau thời gian
phát triển nóng với tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ đã trở thành cường quốc số 2
thế giới về kinh tế, nhưng chất lượng cuộc sống lại đối mặt với nhiều vấn đề.
Khu vực miền Đông tuy phát triển mạnh, nhưng miền Trung và miền Tây còn nhiều
khó khăn. Trung Quốc tuy được xem là công xưởng thế giới, nhưng cũng được coi
là nơi tiêu hao nhiều năng lượng nhất thế giới, trong đó có dầu hỏa. Do vậy,
Trung Quốc luôn luôn tìm những giải pháp để thỏa mãn cơn khát tài nguyên, cũng
như áp lực phát triển nóng.
Theo Đại tá Lê Văn Vị, yếu tố ngoài nước cũng
gây ảnh hưởng lớn tới chiến lược phát triển của Trung Quốc. Theo đó, lãnh đạo
Trung Quốc có tính toán rằng thời điểm hiện tại, thế giới đang tập trung vào
khủng hoảng ở Ukraine, đối phó với chủ nghĩa khủng bố mới do những tổ chức
khủng mới thực hiện…Cả Nga và EU, Mỹ đều đồn sức tìm cách giải quyết vấn đề
này.
Đại tá Lê Văn Vị nhận định: Việc Trung Quốc
gần đây đặt giàn khoan Hải Dương-981 tại vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam,
xây dựng trên các đảo tại khu vực Biển Đông… giúp Trung Quốc đạt được nhiều mục
đích. Trước hết thể hiện được cái mà Trung Quốc gọi là lợi ích cốt lõi “đường 9
đoạn” rất phi lý mà thế giới gọi là “đường lưỡi bò”. Về mặt chính trị Trung
Quốc muốn xác định chủ quyền của họ. Về mặt kinh tế, nếu có dầu khí tại các khu
vực trên sẽ mang lại lợi ích cho Trung Quốc. Đồng thời, Trung Quốc đã chuyển
hóa mâu thuẫn bên trong ra bên ngoài, lấy sự “đồng tâm nhất trí” vu cáo Việt
Nam và các nước khác. Đây là việc đã thường làm ở Trung Quốc.
Giàn khoan Hải Dương-981 hạ đặt trái phép
trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam
Ngoài ra cũng đúng như Tiến sĩ Trần Công
Trục- Nguyên Trưởng ban Biên giới chính phủ khẳng định: Việc làm của Trung Quốc
tuy rất khôn khéo, rất mưu mẹo nhưng khi làm một việc gì không có chính nghĩa,
không đúng chắc chắn sẽ có những sơ hở. Việc làm của Trung Quốc khiến Trung
Quốc sẽ đánh mất uy tín của chính mình.
Leo thang xâm chiếm
Vào giữa thế kỷ XX, liền sau chiến thắng ở
đại lục, quân đội Trung Quốc thay thế quân đội Quốc Dân đảng Trung Hoa chiếm
đóng đảo Phú Lâm (thuộc quần đảo Hoàng Sa) năm 1956, trong khi đó Đài Loan vẫn
tiếp tục thường xuyên có mặt tại đảo Ba Bình (thuộc quần đảo Trường Sa của Việt
Nam).
Năm 1974, quân đội Trung Quốc đã sử dụng vũ
lực, đẩy quân đội của chính quyền Việt Nam Cộng Hòa ra khỏi quần đảo Hoàng Sa,
chiếm cứ quần đảo này một cách bất hợp pháp. Hơn 10 năm sau (1988), họ lại
ngang nhiên đổ bộ với mưu đồ chiếm một số hòn đảo của quần đảo Trường Sa.
Những giai đoạn sau (từ 1956-nay), hoạt động
leo thang xâm chiếm các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt
Nam ngày càng mạnh hơn, với những ý đồ mới, với nhiều hành động khiêu khích,
đụng độ, đe dọa sự toàn vẹn lãnh thổ biển đảo của Việt Nam, hòa bình của Biển
Đông.
Cao điểm của những động thái này là việc
Trung Quốc tuyên bố “đường lưỡi bò” ở biển Đông (chiếm 80% diện tích trên Biển
Đông), nhất là quyết định của Quốc Vụ viện Trung Quốc, ngày 2/12/2007, thành
lập một trung tâm hành chính với tên gọi Tam Sa ở Hải Nam để quản lý quần đảo
Trường Sa, Hoàng Sa và các đảo khác.
Tháng 1/2013, lần đầu tiên Trung Quốc tiếp
tục đưa ra tấm bản đồ dọc mới – bao gồm 10 đoạn – thay thế cho đường lưỡi bò 9
đoạn của Trung Quốc trước đây, và bao trùm lãnh thổ của nhiều quốc gia láng giềng. Tháng
6/2014, Trung Quốc chính thức công bố tấm bản đồ này, tự mở rộng thêm lãnh thổ
của mình trên biển.
Hành động này bị nhiều nước phản đối. GMA News đã dẫn lời
người phát ngôn Bộ Ngoại giao Philippines Charles Jose tuyên bố ngày 26/6 cho
rằng Trung Quốc không thể áp đặt chủ quyền của mình trên Biển Đông chỉ dựa vào
bản đồ mới của mình.
Ông Jose nhấn mạnh Philippines không công
nhận bản đồ của Trung Quốc và cho rằng đây là “một sự bành trướng phi lý”.
“Bản đồ mới của Trung Quốc phải tuân thủ luật
pháp quốc tế. Không nước nào công nhận đường lưỡi bò của Trung Quốc”, ông Jose
nói.
Đại sứ Mỹ tại Philippines Philip Goldberg cho
rằng đường 10 đoạn mà Trung Quốc đưa ra là một chứng cứ ngụy tạo nhằm độc chiếm
Biển Đông.
Ngày 25/05/2010, Theo nguồn tin từ Tân Hoa
xã, Trung Quốc đã thực hiện xong các khâu cuối cùng của hoạt động lắp đặt trạm
thu phát sóng điện thoại đầu tiên trên đảo Chữ Thập (thuộc quần đảo Trường Sa).
Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, cũng trong khoảng thời gian này, Trung Quốc
đã sử dụng nhiều tàu bảo vệ tiến hành khảo sát địa chấn tại khu vực đảo Tri
Tôn, quần đảo Hoàng Sa, tiến hành san lấp với mục đích xây dựng công trình trên
đảo này.
Ngày 06/06/2010, một loạt báo chí Malaysia
đưa tin về khả năng Trung Quốc có thể sẽ bố trí tên lửa đạn đạo Trường Kiếm 10
tại khu vực quần đảo Trường Sa.
Bản đồ đường 10 đoạn mới mà Trung Quốc phát
hành một tháng sau khi đưa giàn khoan Hải Dương-981 vào vùng đặc quyền kinh tế
của Việt Nam (Ảnh AP)
Với những mưu đồ sẵn có, hành động của Trung
Quốc ngày càng lấn tới. Đỉnh điểm mới là lúc 5h22’ ngày 01/05/2014, Cơ quan
chức năng Việt Nam phát hiện giàn khoan nước sâu Hai Yang Shi You 981
(Việt Nam vẫn thường gọi là Giàn khoan Hải Dương-981) tại vùng đặc quyền kinh
tế và thềm lục địa Việt Nam. Trung Quốc đã dùng bạo lực, vòi rồng phun vào tàu
của Lực lượng cảnh sát biển Việt Nam, ngư dân Việt Nam, gây thương tích.
Tuy nhiên, cho dù thế nào đi chăng nữa, đúng
như nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nhận định, những “bằng chứng” thuộc loại
“đao to búa lớn” mà Trung Quốc thường trưng dẫn trong mấy thập niên gần đây
thực ra chỉ là những “chứng cớ giả”. Bởi trước những hành động phi pháp
của Trung Quốc và những bằng chứng lịch sử hiển nhiên, chẳng ai có thể dễ dàng
lấy “vải thưa che mắt thánh”.
Theo nhà nghiên cứu Đinh Kim Phúc, nói đi nói
lại dù cho lời hay ý đẹp cũng là “Chủ quyền thuộc ngã” khi muốn ôm trọn Biển
Đông ở phương nam hay những hòn đảo, đá… ở Biển Đông Trung Hoa như Senkaku/Điếu
Ngư, Okinotori (Nhật Bản) mang tính chiến lược của ý đồ bành trướng ấp ủ từ
lâu.
Đón đọc bài 2: Trung Quốc và ý đồ tạo lợi thế thương lượng về
Biển Đông
B.H.
Trung Quốc và tham
vọng từ nhân dân tệ
Nhật Đăng
(TNO) Nhân dân
tệ đã trở thành đồng tiền thương mại phổ biến thứ 7 thế giới tính đến tháng
5.2014. Dù đã gặp lỗ lần đầu tiên từ 2005, Trung Quốc vẫn đang thành công với
tham vọng bành trướng quy mô sử dụng nhân dân tệ trên thị trường.
Nhân dân tệ – Ảnh: Reuters
Thời gian gần đây, dư
luận đang bàn tán về động thái các doanh nghiệp Trung Quốc yêu cầu giao dịch
bằng nhân dân tệ với Việt Nam.
Trên thực tế, đây chỉ
là một phần trong Dự án Thử nghiệm Giao dịch nhân dân tệ Xuyên quốc gia mà
Trung Quốc xây dựng từ cuối những năm 2000. Họ vẫn đang thành công ở diện rộng,
mặc dù với mức giảm 2,4% khi kết thúc năm 2014, tiền Trung Quốc đã sụt giảm giá
trị lần đầu tiên kể từ năm 2005 – sau 9 năm khởi sắc, theo The First Post (Ấn
Độ).
Nỗ
lực “quốc tế hóa”
Theo Hiệp hội Viễn
thông Tài chính Ngân hàng toàn cầu (SWIFT), con đường quốc tế hóa nhân dân tệ
có thể được chia thành ba giai đoạn: giao dịch, đầu tư và làm tiền dự trữ như
ngoại hối trong tương lai.
Nhân dân tệ đầu tiên
ra khỏi đại lục được xem là bắt nguồn từ các giao dịch tại Hồng Kông vào năm
2003. Sau đó, Trung Quốc mở thêm các chi nhánh ngân hàng hối đoái tại Đài Loan,
Macau, Singapore… tính đến tháng 11.2014, đã có tổng cộng 11 chi nhánh kiểu
này, trong đó châu Âu có 2 địa điểm ở Đức và Pháp.
Trung Quốc đẩy mạnh giao dịch nhân dân tệ khắp thế giới – Ảnh:
Reuters
Ngoài ra, Bắc Kinh
đang trong quá trình thương lượng giao dịch nhân dân tệ với nhiều nước thuộc
các châu lục khác nhau như Mỹ, Thụy Sỹ, Úc, Ả-Rập, UAE… Hiện đã có 19 ngân hàng
quốc tế có dịch vụ đổi tiền nhân dân tệ.
Với các chi nhánh giao
dịch trải rộng, nhân dân tệ đang là đồng tiền được giao dịch nhiều thứ 7 trên
thế giới tính đến tháng 5.2014.Ngoài ra, Bắc Kinh đang trong quá trình thương
lượng giao dịch nhân dân tệ với nhiều nước thuộc các châu lục khác nhau như Mỹ,
Thụy Sỹ, Úc, Ả-Rập, UAE… Hiện đã có 19 ngân hàng quốc tế có dịch vụ đổi tiền
nhân dân tệ.
Sự mở rộng các quốc
gia, chi nhánh, ngân hàng dùng nhân dân tệ đặc biệt bùng nổ trong giai đoạn từ
2012 đến nay. Trong 11 quốc gia/lãnh thổ cho phép chuyển đổi ngoại hối kể trên,
có tới 9 nơi đồng ý sử dụng đồng tiền Trung Quốc trong 2 năm gần đây.
Tạo
ảnh hưởng – tăng sức mạnh
Một điều khá dễ hiểu
với nhiều người rằng, không phải quốc gia nào mạnh thì đồng tiền của họ cũng
mạnh. Cảnh người Nga lao đao vì đồng rúp mất giá so với USD vừa qua là minh
chứng điển hình cho thấy: Trung Quốc không muốn phải “chết” theo nhân dân tệ
khi gặp trục trặc kiểu như Nga.
Hôm 29.12, báo Hồng
Kông South China Morning Post có bài viết cho rằng, việc Hồng Kông và Trung
Quốc liên kết chứng khoán sẽ là “một bước quan trọng trong thực tế và cũng là
bước ngoặt tiêu biểu cho triển vọng về một đồng tiền toàn cầu”, theo lời Giám
đốc điều hành Brett McGonegal của công ty dịch vụ tài chính Reorient.
Nhân dân tệ có thể thay thế USD? – Ảnh: Reuters
Việc Trung Quốc đẩy
mạnh “quốc tế hóa” nhân dân tệ thời gian gần đây phù hợp với sức mạnh kinh tế
của họ. Trong bối cảnh Bắc Kinh trở thành đối tác song phương lớn của nhiều
nước, không lý do gì ngăn cản họ đưa nhân dân tệ vào giao dịch, thay vì dùng
các đồng tiền trung gian như euro hay USD.
Hồi tháng 3 năm ngoái,
Trung Quốc đã mở cửa ngân hàng thanh toán ngoại hối tại trung tâm kinh tế
Frankfurt của Đức. Đây là điều gần như tất yếu khi Trung Quốc đã là đối tác
thương mại nước ngoài lớn thứ ba tại Đức với 140 tỉ USD vào năm 2013, theo
thống kê của Văn phòng Thống kê Liên Bang của Đức.
Sau giai đoạn thanh
toán, Trung Quốc sẽ tiến tới hứa hẹn về đầu tư bằng nhân dân tệ. Điều này được
South China Morning Post phân tích trong bài viết về Hàn Quốc cuối tháng 12 vừa
qua. Theo đó bằng việc giao dịch thông qua nhân dân tệ, các nước như Hàn Quốc
sẽ nhận ưu đãi từ Bắc Kinh trong cuộc cạnh tranh với các công ty nước ngoài
khác. Như vậy, việc phát triển nhân dân tệ trong giao dịch sẽ dẫn đến đầu tư
hai chiều, cũng như sẽ nhìn thấy cơ hội đầu tư vào các công ty tại đặc khu kinh
tế Hồng Kông.
Một “khu vực nhân dân
tệ Đông Bắc Á” là điều Trung Quốc hướng đến, theo South China Morning Post. Và
đây có thể là khởi điểm cho nhiều “khu vực” tương tự trên khắp thế giới, đưa
nhân dân tệ thành đồng tiền toàn cầu… Tuy nhiên, đối với những nền kinh tế lớn,
có sự cân bằng tương đối trong giao thương với Trung Quốc, việc sử dụng nhân
dân tệ để thanh toán ít có nguy cơ bị thao túng và lệ thuộc nhưng với các nền
kinh tế có sự chênh lệch về quy mô với Trung Quốc sẽ đối mặt đầy đủ các nguy cơ
đó.
Nhật Đăng
No comments:
Post a Comment