Tâm địa đại Hán - ngàn
năm không đổi.
Nguyễn Huệ Chi
Trong tình hình
hiện nay, khi giới lãnh đạo đảng CSVN đang lập lại các tiểu Thành Đô - khẩn
khoản cầu hòa sau những hành động xâm lấn của Bắc Kinh vào chủ quyền Việt Nam,
thì việc ôn lại những dữ kiện lịch sử như bài khảo cứu sau đây của Gs. Nguyễn
Huệ Chi là điều rất cần thiết. Xin trân trọng giới thiệu một lần nữa đến quí
độc giả. BBT
Thủ đoạn tiêu diệt tận gốc văn hóa Việt Nam của Minh Thành Tổ
trong cuộc chiến tranh xâm lược 1406-1407
Nguyên đây là một phần trong thiên khảo luận dài có tên “Cuộc
kháng chiến trường kỳ chống xâm lược Minh và văn học yêu nước thế kỷ XV cùng
những bước nối tiếp về sau” viết năm 1980, in trong công trình Văn học Cổ cận
đại Việt Nam – Từ góc nhìn văn hóa đến các mã nghệ thuật của GS Nguyễn Huệ Chi
(NXB Giáo dục, 2013) đã được phê bình, giới thiệu trên nhiều trang mạng và báo
chí trong nước thời gian gần đây.
Diễn Đàn trân trọng cảm ơn GS Nguyễn Huệ Chi
đã cho phép trích đăng bài viết đó để giúp bạn đọc nhìn sâu vào một khía cạnh
đặc biệt thâm hiểm của Hoàng đế Minh Thành Tổ – kẻ thiết kế toàn bộ kế hoạch
đánh chiếm Việt Nam ở đầu thế kỷ XV: âm mưu đồng hóa người Việt bằng một chủ
trương rất bài bản và “cao tay”... là lệnh cho quân lính xóa sạch tại chỗ văn
hóa tinh thần và vật chất của dân tộc Việt tại những nơi chúng tràn đến như
nước lũ. Hầu hết cứ liệu để cập trong bài được rút từ một cuốn sử Trung Quốc –
cuốn Việt kiệu thư 越 嶠 書 của sử thần Lý Văn Phượng 李 文鳳, soạn năm 1540.
Bauxite Việt Nam
--------------------------
Vào năm cuối cùng của thế kỷ XIV, lịch sử chế độ phong kiến Việt
Nam diễn ra một bước ngoặt: Hồ Quý Ly lật đổ ngai vàng của nhà Trần mà thành
lập một triều đại mới – triều đại nhà Hồ. 32 năm trước đó, năm 1368, lịch sử
chế độ phong kiến Trung Hoa cũng đã từng diễn ra một bước ngoặt: nền thống trị
của đế quốc Nguyên – Mông bị phong trào nông dân Trung Quốc đánh đổ; Chu Nguyên
Chương nhảy lên ngai vàng với bộ lễ phục của một triều đại mới – triều đại đế
quốc Minh. Trước sau 30 năm, trên hai đất nước láng giềng, các ông chủ mới đã
lần lượt thế chân các ông chủ cũ.
Nhưng tình hình đó tuyệt không làm thay đổi
một chút nào mối quan hệ vốn có. Trái lại, nó chỉ càng làm nặng nề thêm những
gì trong quá khứ vốn đã quá nặng nề. Những vị Hoàng đế nhà Minh – mới nắm được
“ngôi trời” – cảm thấy mình còn dư sức, con mắt thèm khát nhìn ngay xuống mảnh
đất giàu có phương Nam với lòng tự tin rằng, mình có thể làm được cái việc
“chinh phục” Đại Việt mà những đế chế trước mình đã phải bó tay. Về phía các
vua nhà Hồ, cố nhiên họ hiểu rất rõ dã tâm đó của “thiên triều”.
Ngay khi vừa
lên ngôi, họ đã tích cực chuẩn bị lực lượng quân sự để đối phó. Thế rồi, vào
ngày 19 tháng 11 năm 1406, chiến cuộc đã nổ ra, gay gắt, chớp nhoáng. Nhà Hồ
thất sách về chính trị và sai lầm chiến thuật về quân sự nên chưa đầy một năm
sau đành lâm vào thất bại. Vua Minh lập tức cho đổi trở lại tên Đại Việt thành
quận Giao Chỉ, quàng vội ách đô hộ lên khắp nước ta.
Nhưng nhân dân Đại Việt vốn đã có truyền thống hàng nghìn năm cảnh
giác với kẻ thù phương Bắc, đâu dễ dàng cam chịu ngồi yên.
Và khi mà Minh Thành
Tổ tưởng mọi việc đã xong, ra lệnh cho quân lính sửa soạn rút lui, thì cũng
chính là lúc một phong trào kháng chiến cứu nước của nhân dân bắt đầu trỗi dậy.
Rồi từ đó, hết phong trào này đến phong trào khác, cuộc chiến đấu vì độc lập
của xã tắc đã kéo dài hơn 20 năm cho kỳ đến thắng lợi.
*
Điều cần nói ngay là bộ mặt lịch sử của thế kỷ XV đã hiện ra với
tất cả vẻ khốc liệt và dữ dội. Không phải bản thân chiến cuộc 1406 với tầm mức
gay gắt của nó quyết định sự dữ dội này. Mấy thế kỷ trước, đám chúa trùm phong
kiến Tống, Nguyên chẳng cũng đã mở những cuộc tấn công quy mô xuống Đại Việt,
và về so sánh lực lượng, lần tấn công nào của họ mà lại không có cái thế tưởng
như áp đảo kinh hồn? Nhưng vấn đề đặt ra trong cuộc xâm lăng lần này là nó nhằm
thực hiện một mưu đồ còn hiểm sâu hơn cái việc cướp nước, giết dân thông
thường, của một tên “Đại Hán” mà sự tàn bạo, xảo quyệt và man rợ trong thời đại
của y có thể đứng vào loại nhất nhì thế giới.
Ở tên Đại Hán đó có sự tích lũy
tất cả những kinh nghiệm tàn ác của cha ông y trong quá khứ, kết hợp với những
mánh khóe ranh ma mới mẻ nhất mà thời đại mới mang lại cho y. Chính vì vậy,
nguy cơ của cuộc xâm lăng lần này đã đặt người dân Đại Việt trước một yêu cầu
thức tỉnh toàn diện để có thể đứng vững, hơn thế nữa, để lớn vượt lên.
Cuộc đấu
tranh giành lại chủ quyền và xây dựng đất nước của các thế hệ cha ông ta trong
vòng hơn 20 năm (1406 - 1427) rõ ràng là một cuộc vật lộn oanh liệt mà kết quả
đã tạo ra một bước đổi thay lịch sử phi thuờng. Nắm cho được bộ mặt lịch sử của
thế kỷ XV chính là nắm cho được hai điển hình đối lập tuyệt đối trong bước đổi
thay lịch sử phi thường đó: kẻ thù là kẻ thù mới với những thủ đoạn xưa kia
chưa từng thấy, nhưng về mặt mưu đồ và bản chất hiểm ác vẫn chính là hiện thân
của những tên xâm lược cũ; và dân tộc ta tuy gắn bó với quá khứ sâu nặng nhưng
lại là một dân tộc đang thăng hoa khỏi tầm vóc quá khứ, biểu hiện một sức mạnh
hồi sinh.
Ngón đòn cổ điển nhất của các vị Hoàng đế phương Bắc trước hết là
những âm mưu gây hấn đối với Việt Nam. Về phương diện này, nhà Minh đã tỏ ra không
kém cạnh chút nào so với các triều đại cha anh của họ. Vì thế, cũng giống như
tình hình của rất nhiều cuộc “Nam chinh” trong quá khứ, chiến cuộc 1406 thật ra
đã được “thiên triều” chuẩn bị chu đáo trước đấy lâu lắm rồi. Vấn đề là về hình
thức, phải tìm ra một cái cớ thích hợp để mà “sinh sự”, và về thực chất, phải
làm sao dò thật trúng thực lực của Đại Việt để lượng sức mình. Hai mặt này
thường vẫn gắn chặt với nhau, tác động lẫn nhau trong quá trình chuẩn bị âm
thầm của họ.
Năm 1377, chỉ mới chín năm sau ngày giành được địa vị “con trời”,
ông vua Minh đầu tiên đã nóng nảy muốn vin cớ vua Trần Duệ Tông nước ta tử trận
trong cuộc thân chinh phương Nam (1377) mà cất quân sang hỏi... “tội” (!).
Nhung “hỏi tội” một vị vua vì “chống nạn cứu dân” mà không may bị chết? Trước
lời lẽ cứng rắn của Trần Đình Thâm, sứ giả nước ta, vua Minh đuối lý, không
những phải cử người sang dự lễ viếng, mà còn đành phải gác lại bao nhiêu mưu kế
những toan đem thi thố phen này(1).
Dĩ nhiên, gác lại không có nghĩa là xếp bỏ
hẳn, mà chỉ là buộc lòng nén lại những dự định bên trong ngày một sục sôi.
Tháng 9 năm 1384, nhân cho quân lính tiến xuống đánh Vân Nam, vua Minh thảo
công văn đòi nước ta cấp lương cho đạo quân “tiễu phạt” của y. Ta nhân nhượng.
Rồi các năm 1385, 1386, vua Minh vẫn đưa ra những yêu sách vô lý, phiền hà.
Nào
bắt nộp hoạn quan, nào muốn tìm giống cây xứ nóng, thậm chí đòi cả voi để
“thiên triều” mang đi đánh trận. Năm 1395, Minh còn trắng trợn sai bọn Nhâm
Hanh Thái sang xin ta giúp 5 vạn quân, 50 con voi và 50 vạn hộc lương với dụng
ý chộp bắt sứ giả của ta để kiếm chuyện. Nhưng Nhâm Hanh Thái lại mật báo cho
ta biết trước, vì thế ta đã kịp thời đề phòng, chỉ cho chở một ít lương lên
biên giới rồi rút về ngay chứ không cấp lính và voi.
Một vài ví dụ như trên cũng đủ thấy tên lãnh chúa phong kiến
phương Bắc mới phất lên này nóng lòng dòm ngó Đại Việt đến đâu. Nhưng mặt khác,
một thực tế cũng dễ thấy là mặc dù rất tham lam, các ngài ngự “Đại Minh” vẫn
phải kéo dài việc chuẩn bị xâm lược suốt 30 năm, từ đời vua cha đến đời vua
cháu(2). Vì sao có cái mâu thuẫn hết sức lạ đời đó?
Chắc hẳn trong khi rút kinh
nghiệm quá khứ, bài học thảm bại chưa xa xôi gì của những kẻ “đi trước” đã
không khỏi làm cho các ngài đâm ra e ngại, trùng trình: “Nước An Nam tuy ở góc
biển nhưng xưa kia đã là quận huyện của Trung Quốc. Từ đời Ngũ quý về sau sức
ta không còn chế ngự nổi họ. Qua Tống đến Nguyên, tuy muốn mưu đồ nhưng không
thành, chỉ để tiếng chê cười cho hậu thế”(3).
Đấy là lời thú nhận của Minh
Thành Tổ trong sắc chỉ y gửi viên Tổng binh Chu Năng – viên tướng đầu tiên cầm
quân sang đánh Đại Việt theo lệnh của y – đề ngày 1 tháng 8 năm Vĩnh Lạc thứ 4
(1406). Cũng ở sắc chỉ đó còn nêu một lời nhận xét của Minh Thành Tổ về nguyên
nhân thất bại của Tống và Nguyên: “Tống cũng như Nguyên đều cho quân sang đánh
An Nam, nhưng tướng thì kiêu, binh thì lười, lại còn tham tài hiếu sắc, vì thế
mà không thành”(4). Sự thật thì tuy làm ra vẻ cười ngạo tổ tiên mình, ông Hoàng
đế khét tiếng về tham vọng và tàn bạo này cũng chẳng can đảm hơn bao nhiêu trên
vấn đề xâm lược Việt Nam.
Năm 1403, bốn năm sau khi Hồ Quý Ly đã cướp ngôi nhà
Trần, tình hình mâu thuẫn và bế tắc trong tập đoàn phong kiến Trần – Hồ không
những không giải quyết được mà còn thêm gay gắt, cái cớ gây hấn đã có thể kiếm
ra rất dễ, điều kiện gây hấn cũng đã hết sức thuận lợi; lại cũng là năm Minh
Thành Tổ vừa dùng mọi thủ đoạn đoạt được ngôi từ trong tay cháu ruột của mình;
ấy thế mà đối với nước ta, ông ta vẫn sợ và gờm, chỉ mới dám cho bọn hoạn quan
người Việt trở về làm do thám một lần cuối, và chuẩn bị nội ứng, ước hẹn ngoài
đánh vào thì trong cắm cờ vàng làm hiệu.
Thế rồi, phải ba năm sau nữa, khi mọi
yêu cầu tìm hiểu đã được đáp ứng đầy đủ, cảm thấy không còn một trở ngại nào
đáng kể trên con đường tiến xuống kinh đô Đại Việt, Minh Thành Tổ bấy giờ mới
thật quyết tâm khởi thế công. Một mặt, ông ta vờ làm to chuyện lên rằng đến lúc
này không ai còn chịu đựng nổi những việc Hồ Quý Ly truất ngôi các vị vua Trần
và giết hại đám con cháu nhà Trần (vốn là việc đã xảy ra sáu, bảy năm về
trước!): “Bề tôi [cũ của họ Trần] là [Lê] Quý Ly và Lê [Hán] Thương từ lâu nuôi
lòng lang sói, rốt cuộc làm việc cắn càn, ra tay thí nghịch quốc vương, tàn sát
người trong dòng họ Trần, cả những bề tôi của họ Trần cũng trong vòng thảm khốc,
bị hãm vào chỗ chết.
Bọn chúng gieo đau khổ cho sinh dân, đến gà chó cũng không
yên sống, tiếng hờn oán dấy lên đầy đường”(5). Mặt khác, với ngón bịp sở trường
từ tổ tiên mình truyền lại, ông ta lại cũng ra điều ta đây bất nhẫn, không định
gây việc can qua làm gì, chỉ vì Hồ Quý Ly quá lắm nên phải động binh; song động
binh mà vẫn rất nhân từ, muốn thu xếp ổn thoả bằng cách cho cha con họ Hồ “đem
trăm vạn lạng vàng và một trăm con voi ra chuộc tội. Nếu không đủ thì cho phép
đem châu ngọc bảo bối thế vào cho đủ. Có thế đại quân mới không tiến sang”(6).
Kỳ thực, có đúng thế hay không?
Trong đạo sắc bí mật gồm 10 điều căn dặn riêng
viên Tổng binh Chu Năng – gửi mấy ngày trước ngày ban bố tờ chiếu công khai
trên đây – Minh Thành Tổ đã thổ lộ “can tràng” của ông ta: “Nay sai Chu Khuyến,
Trương Anh đem công văn của Bộ Lễ sang An Nam đòi nộp voi và vàng. Làm kế ấy để
cho chí chiến đấu của chúng buông lỏng chứ không phải là thực bụng. Khi bọn Chu
Khuyến ra đi, trẫm từng gặp mặt phủ dụ, bảo chúng đến nuớc họ chỉ ở lại 5 ngày,
nếu 5 ngày chưa xong thì cho phép được bao nhiêu hãy cứ nộp truớc, sau sẽ sai
người mang tiếp sang nộp cho đủ. Ngươi chờ cho bọn Chu Khuyến đi rồi thì đại
quân phải tức khắc xuất phát theo sau. Nếu gặp kẻ đuợc phái sang nộp voi và
vàng thì cứ bắt giữ lại để tra hỏi tin tức, nhưng đừng hở cho họ biết kẻ sai đi
đã bị bắt... Nay bọn Chu Khuyến vào nước đó, mọi việc ngươi nhất thiết chớ hở
ra cho ai biết”(7).
Gớm ghê thay miệng lưỡi từ bi và lòng dạ thực của đấng “thiên tử”!
Duy có điều là ngay cả vào lúc đó rồi mà ngài vẫn còn e dè gửi tiếp những sắc
chỉ căn dặn: nào là “nước An Nam giàu mạnh đã lâu”(8), nào là “quân lính của họ
tất có phòng bị trước”, nào là “cha con họ Lê – tức họ Hồ – lắm mưu mẹo giảo
quyệt”, tuyệt nhiên không thể sơ hở hoặc xem thường. Trong nhiều đạo sắc, Minh
Thành Tổ đều tỏ ý lo lắng khi quân mình vượt sông Phú Lương là chỗ hiểm yếu bậc
nhất, sẽ thua mưu kế của Hồ Quý Ly.
Y viết rõ trong một sắc chỉ đề ngày 14
tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407) nói về đạo binh của Trương Phụ: “Cứ đóng
quân mãi trên sông giằng co với giặc chính là rơi vào mưu kế của giặc Lê [Quý
Ly] nhằm giữ chân quân ta thật lâu, đợi cho dịch lệ phát sinh; vì thế phá được
mưu này thì phải thần tốc không được trì hoãn”(9).
Rõ ràng, vừa khát thèm lại vừa e sợ, vừa hung hăng lại vừa lo
ngại, vừa ráo riết sửa soạn lại vừa trù trừ cho đến tận phút cuối cùng, cuộc
chiến tranh xâm lược của giặc Minh ở thế kỷ XV quả đã không còn là ngón đòn mới
mẻ gì đối với nhân dân Việt Nam. Bước ra quân ban đầu của “thiên triều” phải mang
tính chất hai mặt: nhanh mà chậm, nóng mà lạnh, đánh thực mà cũng là đánh dứ,
cũng chính là vì vậy.
*
Tuy nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi ban đầu. Khi đã dấn sâu
vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn giặc xâm lược liền lộ hết
vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích ồ ạt nhằm phá vỡ phòng
tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng Long đánh toả xuống phía
Nam, được thi hành. Một chế độ thống trị ngoại bang được dựng lên chớp nhoáng ở
khắp mọi miền, thành thị cũng như nông thôn mà chúng vừa đặt chân đến.
Và một
chính sách chém giết thẳng tay cũng được đem ra ban phát lập tức cho dân chúng.
“Trương Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất thây người thành núi, hoặc rút
ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc
để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa, moi thai, cắt lấy tai của mẹ và
con để tính làm hai mạng người”(10).
Tuy nhiên, đấy chỉ là cái dè dặt của buổi
ban đầu. Khi đã dấn sâu vào đất nước ta, thấy rõ chỗ thất thế của nhà Hồ, bọn
giặc xâm lược liền lộ hết vuốt nanh và hành vi táo tợn. Một chiến lược tập kích
ồ ạt nhằm phá vỡ phòng tuyến chính để tiến thẳng đến Thăng Long, và từ Thăng
Long đánh toả xuống phía Nam, được thi hành. Một chế độ thống trị ngoại bang
được dựng lên chớp nhoáng ở khắp mọi miền, thành thị cũng như nông thôn mà
chúng vừa đặt chân đến.
Và một chính sách chém giết thẳng tay cũng được đem ra
ban phát lập tức cho dân chúng. “Trương Phụ đi đến đâu là giết hại, hoặc chất
thây người thành núi, hoặc rút ruột người quấn vào cây, hoặc rán thịt người lấy
mỡ, hoặc làm nhục hình bào lạc để mua vui. Thậm chí có kẻ mổ bụng người chửa,
moi thai, cắt lấy tai của mẹ và con để tính làm hai mạng người”(10).
Có thể nói, nói đến đặc điểm thứ hai trong chân dung của tên xâm
lược mới ở thế kỷ XV là nói đến hình ảnh các viên quan cai trị nhà binh với tất
cả những thủ đoạn giết người – trị người – dùng người gắn bó với nhau một cách
tinh vi và nham hiểm. Sau nhiều lần cố gắng phản công ở Hàm Tử, Lỗi Giang, Điển
Canh, Kỳ La,... nhưng đều thất bại, vào tháng 6 năm 1407, nhà Hồ cùng quẫn và
bị bắt ở núi Thiên Cầm.
Cả nước rơi vào tay giặc, và trở thành một lò sát sinh,
một công trường lao dịch khổ sai, một nơi để giặc Minh thoả sức tìm tòi thức
ngon của quý. Ngay trong những ngày đang trên đường tiến sang nước ta, bọn
tướng tá viễn chinh đã nhận được sắc chỉ của vua Minh căn dặn hễ đến đâu là
phải tịch thu hết giấy tờ, sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất đến đấy; phải
lập ngay chế độ thuế khóa trên những vùng vừa chiếm đóng; và chú ý khai thác
các mỏ bạc, mỏ vàng. Kể cả những mỏ nằm trên biên giới Việt – Chiêm, chưa rõ
thuộc phần đất bên nào, cũng được lệnh cứ cướp lấy chứ không cần tra xét hư
thực(11).
Hai cơ quan Kim trường cục và Châu trường cục được thành lập, nhằm
xua dân miền biển và miền núi vào mọi công việc đãi vàng, mò vàng, mò ngọc.
Chưa hết. Còn chế độ lao dịch ở đồng quê, ở thành thị... Đâu đâu cũng cái cảnh
“bị người Minh sai khiến mà mất cả gia thuộc”(12), “bị bắt hết làm nô tỳ và
chuyển bán đi mà tan tác bốn phương” (13).
Đẩy nhân dân Đại Việt đến chân tường, giặc Minh phải đâu đã thoả.
Chúng còn tìm cách thâu tóm vào tay mình hoặc nếu không thì triệt cho hết trong
đám người còn sống sót những ai thật sự có tài năng. Hễ nghe ở đâu trong các
châu quận nước ta có thầy hay, thợ giỏi, bọn quan cai trị đều cho lập danh sách
đem “tiến” về Yên Kinh. Các loại người bị tiến nhiều nhất là thầy thuốc, thợ
thủ công, ca nữ tuyệt sắc, thầy bói và thầy địa lý;...
Mỗi năm Minh hoàng lại gửi sang một lệnh. Mỗi năm, hàng nghìn người
dân Việt lại lìa bỏ gia đình xứ sở, ra đi, để rồi không bao giờ trở về.
Nhưng cho dù có tìm mọi mưu kế bắt và giết người dần mòn để bổ
sung cho những cuộc tàn sát hàng loạt thì vẫn không thể nào là kế sách cai trị
vẹn toàn. Giặc Minh biết vậy nên cũng lại ra sức thi hành một chính sách “mặt
trái” rất khôn khéo: chính sách mỵ dân.
Trong một đạo sắc, vua Minh khẩn khoản
dặn đám tướng tá: hễ người dân Việt nào chống lại thì diệt kỳ sạch, nhưng ai đã
đầu hàng thì phải tha ra, không giết bừa(14). Tưởng chừng đại Hoàng đế ngài
nhân từ có một. Có ngờ đâu, tha, theo ý ngài, là bắt đem “cung hình” (thiến)
nhất là đối với lớp người Việt trẻ(15), sau đó cung cấp cho cái chế độ quan
liêu đồ sộ của Minh hoàng vốn đang rất thiếu nô bộc và thái giám hầu hạ!
Đặc biệt, trong chính sách dùng người, nhà Minh đã tỏ rõ khả năng
vượt hơn những kẻ xâm lược xưa kia một bước rất dài. Trừ những chức quan cao
cấp ra, chúng đặt người Việt vào mọi địa vị quan chức từ quận, huyện trở xuống.
Và một chính sách lục dụng đám trí thức, quan lại cũ của Đại Việt được ban bố
trong rất nhiều đạo sắc từ 1406 đến mãi những năm sau khi khởi nghĩa Lam Sơn đã
nổi dậy, có thể nói là nhiều nhất trong số sắc chỉ của các vua Minh về vấn đề
Việt Nam. Đây quả là một đường lối mà nhà Minh kiên nhẫn theo đuổi đến cùng.
Có
trường hợp những người có tên tuổi, hoặc có ảnh hưởng trong dân chúng như
Nguyễn Cảnh Chân, Đặng Tất, Phạm Thế Căng, Trần Nhật Chiêu, Trần Thúc Dao,...
chính vua Minh trực tiếp chỉ thị phải dụ dỗ cho bằng được(16). Có trường hợp
khác như Bùi Bá Kỳ, bọn quan lại dưới quyền sơ ý để đến nỗi ông ta từ chỗ chạy
sang Minh cầu cứu đến chỗ mất hết lòng tin tưởng, vua Minh cũng trực tiếp xuống
chỉ rút kinh nghiệm về việc “dùng người” và than thở không thôi(17).
Sự chu đáo
trong chính sách “chiêu hồi” này còn biểu hiện ở cung cách chiêu hồi: tất cả
đều được lập thành danh sách, mời về Yên Kinh khoản đãi và để cho bọn quan lại
cao cấp nhà Minh chủ yếu là Hoàng đế “bồi dưỡng về lập trường quan điểm”, rồi
sau đấy lại được trả trở về Giao Chỉ, phân bổ đi nhận các chức quan(18).
Nhưng thủ đoạn mỵ dân mà nhà Minh lưu tâm hàng đầu – và từ đây
cũng sẽ đẻ ra nhiều nhiệm vụ phức tạp cho cuộc đấu tranh chính trị chống xâm
lược – chính là một phương sách hai mặt: vừa triệt để thống nhất về bản chất
với những tên xâm lược trong quá khứ, lại vừa làm ra vẻ giữa mình và quá khứ có
một bước ly khai. Ngay trong đạo sắc 10 điều của Minh Thành Tổ đề ngày 8 tháng
7 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406) gửi viên tướng viễn chinh Chu Năng trên đường
y cất quân sang Đại Việt, đã dẫn một phần ở trên, có một điều thứ tư rất đáng
chú ý: “Hỏi xem cột đồng trụ hiện dựng ở đâu, phải đập cho nát và ném ra ngoài
đường, để cho nguời trong nước đều trông thấy”(19).
Chắc ai cũng phải lấy làm
lạ: một bằng chứng “chinh phục” tiếng tăm của Mã Phục Ba thời Hán, cũng là một
dấu vết của sự sỉ nhục mà người Việt nhiều đời đã phải ném đá chồng lên cho mất
tích, ấy thế mà vua Minh lại bắt phá đi? Ông ta hớ hênh dại dột, hay ngông
cuồng, hay thật bụng nhân đức? Đâu có phải vậy! Thực tình Minh Thành Tổ coi đây
là một việc hệ trọng, và trong những sắc chỉ ban bố một năm sau đó, ông ta còn
nhắc lại điều này(20).
Dám hy sinh đến cả “sự nghiệp” vênh vang của “tiền
nhân”, phải chăng tên đầu sỏ xâm lược ở thế kỷ XV muốn nhờ đấy đánh đổi lấy một
bộ mặt mới, chí ít cũng giúp y che giấu phần nào cái bản chất “một đồng một
cốt” giữa y với Mã Viện, để y có thể thừa cơ tung hoành?
Có lẽ! Nhưng chắc chắn
còn những lý do thâm trầm hơn. Kinh nghiệm xương máu đã cho tên trùm Đại Hán
thấy, đụng đầu vào xứ sở Đại Việt quả là điều gay. Một cột đồng trụ những tưởng
nhục mạ được dân Nam và trói chặt họ vào một cái mốc “chiến bại”, thì rốt cuộc
cũng có nghĩa gì đâu khi mà, vượt lên trên tất cả những thứ cột mốc hình thức
kia, một quy luật lịch sử lạnh lùng – mà ngay nhiều tên xâm lược cũng phải đành
lòng thừa nhận – cứ tự nó phát huy tác dụng: “... dù có cướp được nước họ thì
rồi cũng không thể giữ được”(21).
Có nghĩa là chỗ khó khăn nhất, mà quả là khó,
là làm sao biến được dân tộc Việt thành người Trung Quốc, để vĩnh viễn họ không
còn tìm cách nổi dậy, và đất nước họ vĩnh viễn là quận huyện của “thiên triều”?
Thủ đoạn đập phá cột đồng trụ của Minh Thành Tổ chính là một cách lý giải mới
đối với bài tính nát óc này. Y quyết tâm phủ nhận những ràng buộc vô hiệu bề
ngoài mà tìm kiếm những ràng buộc lợi hại hơn hẳn. Đó là những trói buộc nghiệt
ngã trên lĩnh vực tư tưởng, những quy định có tính chất chuyên chế, độc đoán về
sinh hoạt tinh thần.
Lần đầu tiên, trong lịch sử xâm lược Đại Việt của bọn chúa tể
phong kiến Trung Quốc, tên xâm lược nhà Minh áp đặt một cách gay gắt vấn đề hệ
tư tưởng đối với xã hội Việt Nam. Trong bản bố cáo đề ngày 8 tháng Tư năm 1407,
sau khi chiếm xong nước ta, Minh Thành Tổ dành hẳn một đoạn khá văn hoa để nhấn
mạnh rằng, một trong những tội trạng của Hồ Quý Ly khiến “ngài” không thể không
“chinh thảo”, là họ Hồ đã tự coi “đạo của mình hơn cả Tam vương, đức cao hơn
Ngũ đế, cho Vũ, Thang, Văn Vương, Vũ Vương không đủ để noi theo, Chu Công Khổng
Tử không đáng làm thầy mình, giễu Mạnh Tử là nhà nho ăn cắp, nhạo Chu [Đôn Di],
Trình [Hiệu, Trình Di], Truơng [Tải], Chu [Hy] là phường trộm cướp”(22), v.v.
Cơn giận của “ngài” kể cũng dễ hiểu, bởi một nước tự xưng là “thần tử” của Hoa
hạ làm sao có thể dám coi thường cái đạo mà các Đại Hoàng đế Trung Quốc tôn
thờ? Nhưng còn một lẽ sâu xa nữa là có đưa đạo Nho lên làm “đạo thống” thì mới
dễ dàng phát huy ảnh hưởng của “thiên triều” tới các cõi xa, nói như họ Khổng
là “làm cho xa thư về một mối”. Và khi đã “gắn bó với nhau về ý thức hệ” thì há
miệng mắc quai, cúi mọp đầu không dám phản kháng là điều dễ hiểu.
Dù sao, vấn đề không chỉ giản đơn có vậy. Minh Thành Tổ muốn lấy
đạo Nho để thống trị nhân dân Đại Việt, nhưng rồi y lại còn muốn đi xa hơn.
Cuồng vọng bá chủ sôi sục khiến y cảm thấy như thế vẫn chưa thoả lòng. Tốt nhất
là làm sao cho nước “man di” kia không còn có gì gọi là long mạch tư tưởng,
tinh thần.
Y muốn xóa sạch ở cái dân tộc nhỏ bé phương Nam đầy sức tự cường mà
trong lòng nhiều thế hệ những tên giặc Bắc vẫn rất khiếp sợ, toàn bộ ý thức về
quá khứ lịch sử của chính họ. Mà xóa sạch được quá khứ của một dân tộc chính là
cách cắt đứt nguồn tiếp sức quan trọng của dân tộc đó, đặt họ vào chỗ mù mịt
tối tăm, phá tan đi cái nền tảng làm cho họ tồn tại và sinh thành. Muốn vậy
phải làm thế nào? Không có cách nào hữu hiệu hơn là tàn phá không thương tiếc
tất cả những gì là sản phẩm trí tuệ của dân tộc này, nó là biểu trưng cho văn
minh, văn hóa.
Trong sắc chỉ 10 điều của Minh Thành Tổ gửi Tổng binh Chu Năng
đã nói ở trên, bên cạnh những điều căn dặn tỉ mỉ về cách chế ngự “hoả khí” lợi
hại của cha con họ Hồ, về việc tịch thu sổ sách kê khai nhân khẩu và ruộng đất,
hoặc đập phá cột đồng trụ,... còn một điều đặc biệt hơn mọi điều kia: “Một khi
binh lính vào nước Nam, trừ các sách kinh và bản in của đạo Phật, đạo Lão thì
không thiêu hủy; ngoài ra hết thảy mọi sách vở văn tự, cho đến cả những loại
[sách] ca lý dân gian, hay sách dạy trẻ, như loại sách có câu “Thượng đại nhân,
khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt hết. Khắp trong nước phàm những bia
do Trung Quốc dựng từ xưa đến nay thì đều giữ gìn cẩn thận, còn các bia do An
Nam dựng thì phá sạch hết thảy, một mảnh một chữ chớ để còn”(23).
Thử lần tìm cái động cơ chính ẩn trong đạo sắc văn này. Tên vua
Minh nói: tất cả những gì thuộc nền văn hóa chính quốc Trung Hoa, kể cả sách
kinh của Phật và Lão, đều được giữ lại đầy đủ.
Trái lại, bao nhiêu trước tác
thuần túy Việt Nam thì đều phải phá hủy. Vậy ra, sự lựa chọn của y chẳng phải
là đạo Nho hay một hệ tư tưởng chính thống nào cả.
Đối với người Giao Chỉ cũng
như các dân tộc bị y xâm lược, y chỉ cần một sự lựa chọn đơn giản, mà lại thực
dụng hơn nhiều: hãy bắt họ từ bỏ tất cả những gì sinh ra trong đầu óc của chính
dân tộc họ kể cả trong quá trình tiếp nhận những gì là vốn liếng tinh thần của
“nước mẹ Đại Minh”. Ý hẳn Hoàng đế nhà Minh muốn bắt các dân tộc thôi đừng có
tự mình tư tưởng nữa. Mà không tư tưởng, thì có nghĩa là... không tồn tại.
Thế rồi, từ trong thâm cung tại Yên Kinh, Hoàng đế nhà Minh ngày
đêm lo theo dõi, đôn đốc việc thi hành lệnh chỉ đã ban ra.
Đến nỗi khi thấy có
một bộ phận quân lính không chịu làm theo đúng lệnh, nghĩa là không đốt ngay
sách vở cướp được của nước ta mà còn giữ lại, y lập tức gửi một tờ lệnh thứ hai
nhắc lại đúng những điều đã chỉ thị từ trước, lại giải thích rõ vì sao cần đốt
ngay tại chỗ chứ không nên giữ lại: “Nhiều lần đã bảo các ngươi rằng phàm An
Nam có tất thảy những sách vở văn tự gì, kể cả các câu ca lý dân gian, các sách
dạy trẻ, như loại “Thượng đại nhân, khưu ất dĩ” một mảnh một chữ đều phải đốt
hết, và tất thảy các bia mà xứ ấy dựng lên thì một mảnh một chữ hễ trông thấy
là phá hủy lập tức, chớ để sót lại.
Nay nghe nói những sách vở do quân lính bắt
được, không ra lệnh đốt ngay, lại để xem xét rồi mới đốt. Quân lính phần đông
không biết chữ, nếu đâu đâu cũng đều làm vậy thì khi đài tải sẽ mất mát nhiều.
Từ nay các ngươi phải làm đúng như lời sắc trước, truyền cho quân lính hễ thấy
sách vở văn tự ở bất kỳ nơi nào là phải đốt ngay, không được lưu lại”(24).
Dĩ nhiên, ngay những tên đã trù mưu định kế ăn cướp nước ta cũng
cảm thấy một chủ trương tàn bạo như thế thực muôn phần nguy hiểm. Nó sẽ dẫn đến
làm nổ bùng lòng căm phẫn ngút trời của cả một dân tộc, và sức mạnh có tính dây
chuyền của sự bùng nổ đó chắc sẽ gây nên những hậu quả khôn lường. Cũng vì thế,
đi kèm với những điều lệnh, Minh Thành Tổ còn bắt quân lính phải giữ thật kín
chủ trương của mình.
Sau gần một năm đốt phá, biết rằng yêu cầu của việc phá
hoại về căn bản đã xong, ngày 19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25 - 6 - 1407),
y lại gửi một sắc chỉ xuống phương Nam ra lệnh cho các tướng lĩnh của y phải
cấp tốc thu hồi những đạo dụ y đã ban ra từ trước: “Nay An Nam đã bình định
xong; [...] trừ các loại chế dụ ra còn thì tất cả các đạo sắc viết tay và các ký
sự thư thiếp, đã từng phát đi từ trước, cùng với sổ ghi chép mà Thành quốc công
đã lĩnh, hoặc các thứ [sổ sách] trù nghị mọi việc, đều phải đem toàn số kiểm
kê, đối chiếu, niêm phong cẩn mật, gửi trả lại, không cho lưu lại một chữ. Nếu
có một chữ bỏ lại, rơi vào tay bọn kia(25) thì rất bất tiện”(26).
Tưởng cũng khó có thể chê trách gì về sự cao tay của Minh Thành Tổ
trong việc xếp đặt đâu ra đấy từng bước “tiến”, “thoái”, “thắt”, “cởi” cho mọi
hành động tàn phá kinh khủng nhất của mình. Nếu nghệ thuật diệt chủng của y
thâm thúy đến mức đẩy đối tượng bị tiêu diệt vào một tình trạng trống rỗng, hư
vô, không còn quá khứ cũng không còn tương lai, nghĩa là cứ dần dần “tự diệt”,
thì nghệ thuật xóa dấu vết của y cũng tinh vi đến mức y vừa ăn cướp lại vừa có
thể hùng hổ la làng rằng bị cướp đe dọa.
Âu đây chính là những dáng nét hiện
đại nhất của tên xâm lược Đại Hán ở thế kỷ XV vốn sẵn có trong mình cái bản
chất xâm lược dã man của nhiều thế hệ cha ông đã thấm vào máu thịt; là cái được
nhân lên, biến hóa sinh động hơn những thủ đoạn cướp đất giết dân hôm qua hôm
kia còn rất quen thuộc mà nay đã bị xem là quá cổ lỗ và thật thà.
N.H.C.
---------------
Chú thích:
Những chú thích dưới đây, so với bản in lần đầu của bài này (ngày
14.9.2013), đã được chỉnh sửa theo chỉ dẫn của tác giả, thống nhất theo bản
Việt kiệu thư của viện Viễn Đông bác cổ thời Pháp, nay là Thư viện Viện Khoa
học xã hội (xem chú thích số 1., bài Sách Việt kiệu thư trong con mắt giới sử
học đương đại). Diễn Đàn.
(1) Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, NXB
Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1971; tr. 189.
(2) Thật ra, khi cháu Minh Thái Tổ lên nối ngôi thì chú y, tức Chu
Đệ 朱棣
liền cướp lấy mà lập ra triều đại thứ ba của nhà Minh (1402 - 1424), tức Minh
Thành Tổ.
(3) Lý Văn Phượng 李 文 鳳, Việt kiệu thư 越 嶠 書 (1540). Đây là một tài liệu quý, ghi chép khá
đủ theo trật tự thời gian những đạo sắc chỉ của Minh Thành Tổ gửi đều đặn (thường
là vài ngày một đạo) đến các tướng chỉ huy trong cuộc xâm lăng Đại Việt 1406-1407.
Trước đây chúng tôi chỉ tham khảo duy nhất cuốn sách này của Thư viện Viện Khoa
học xã hội vốn là sách của Viện Viễn Đông bác cổ Pháp cũ, ký hiệu: 1731, (nay
thay đổi ký hiệu là: VH. 000276 - HV. 000281), nhưng năm 2001, sang làm việc ở
Thư viện Yenching Harvard, tìm thêm được văn bản do Tề Lỗ thư xã xuất bản, Nam
Kinh, 1996.
Tuy vậy, trong bài này, vẫn xin ghi chú số quyển và trang và theo
bản của Thư viện Viện Khoa học xã hội để cho thống nhất. VH. 000276, Q. 2, tờ
19a: 今 安 南 雖 在 海 陬 。自 昔 為 中 國 郡 縣 。五 季 以 來 力 不 能制 。歷 宋 及 元 雖 欲 圖 之 而 功 無 所 成 。貽 笑 後 世 (Kim An Nam tuy tại hải
tưu, tự tích vi Trung Quốc quận huyện. Ngũ quý dĩ lai lực bất năng chế. Lịch
Tống cập Nguyên tuy dục đồ chi nhi công vô sở thành, di tiếu hậu thế).
(4) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 20a (Điều ghi chú thứ 9 trong 18
điều khoản kèm theo tờ sắc này): 宋 元 皆 發 兵 征 討 安 南。將 驕 兵 懦。貪 財 好 色。以 此 不 能 成 (Tống Nguyên giai phát binh chinh thảo An Nam,
tướng kiêu binh nọa, tham tài hiếu sắc, dĩ thử bất năng thành).
(5) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1
tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên
văn: 其 臣 季 孷 黎 蒼 久 畜 虎 狼 之 心 。竟為 吞 噬 之 。舉 弒 其 國 王。 戕 其 本 宗。覃 被 陪 臣 重 罹 慘 酷 。掊 剋 殺 戮 。毒 病 生 民 。雞 犬弗 寧 。怨 聲 載 路 (Kỳ thần [Lê ] Quý Ly,
Lê [Hán] Thương cửu súc hổ lang chi tâm, cánh vi thôn phệ chi, cử thí kỳ quốc
vương, thương kỳ bản tông, đàm bị bồi thần trọng duy thảm khốc, bồi khắc sát
lục, độc bệnh sinh dân, kê khuyển phất ninh, oán thanh tái lộ).
(6) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Bảy năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt
kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 18a. Nguyên văn: 今 廣 西 奏 。安 南 遣 人 來 貢 謝 罪 。原 胡 奄 。 父 子 罪 本 難 容 。 今 既 改過 自 新 。只 著 他 辨 黃 金 五 萬 。象 一 百 隻 。 以 贖 其 罪 。 金 象 不 足 。許 以 珠 玉 寶 貝 代 之。以 足 其 數 即 止 。大 軍 不 進 (Kim Quảng Tây tấu: An Nam khiển nhân lai cống
tạ tội. Nguyên Hồ yêm, phụ tử tội bản nan dung. Kim ký cải quá tự tân, chỉ
trước tha biện hoàng kim ngũ vạn, tượng nhất bách chích, dĩ thục kỳ tội. Kim
tượng bất túc, hứa dĩ châu ngọc bảo bối đại chi, dĩ túc kỳ số tức chỉ, đại quân
bất tiến).
(7) Điều thứ 10 trong 10 điều căn dặn trong đạo sắc chỉ bí mật,
xếp sát ngay sau đạo sắt đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406).
Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17b: 今 遣朱 勸 張 瑛 齎 禮 部 咨 文 往 安 南 索 其 金 象。此 計蓋 欲 弛 其 鬥志。非 真 實 意 也 。 朱 勸 等 臨行 朕 曾 面 諭 之 。今 到彼 只 住 五 日 。若 五 日 內 措 辨不 足 。 許 隨 多 少 先 將 來 。 後 卻 差 人納 足 。爾 待 朱 勸 等 人 去 。大 軍隨 後亦 進 。 若 遇 差 出 納 金 象 之 人 就 執 之 。訖 問 聲 息 。須 勿 令彼 知 差 來 被 執 。今 朱 勸 等 到 處 。爾 事 機 切 不 可 令 人 知 之 (Kim khiển Chu Khuyến, Trương Anh tu Lễ bộ tu
văn vãng An Nam sách kỳ kim tượng. Thử kế cái dục thỉ kỳ đấu chí, phi chân thực
ý dã.
Chu Khuyến đẳng lâm hành, trẫm tằng diện dụ chi, kim đáo bỉ chỉ trú ngũ
nhật. Nhược ngũ nhật nội thố biện bất túc, hứa tùy đa thiểu tiên tương lai, hậu
khước sai nhân nạp túc. Nhĩ đãi Chu Khuyến đẳng nhân khứ, đại quân tùy hậu diệc
tiến. Nhuợc ngộ sai xuất nạp kim tượng chi nhân tựu chấp chi, cật vấn thanh
tức. Tu vật linh bỉ tri sai lai bị chấp. Kim Chu Khuyến đẳng đáo xứ, nhĩ sự cơ
thiết bất khả linh nhân tri chi).
(8) Sắc chỉ ngày 1 tháng Tám năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406). Việt kiệu
thư, Q. 2, Sđd tờ 20a: 安南 自 我 朝 以 來 [。。 。] 數 十 年 不 曾 用 兵 。其 國 中 富 庶 (An Nam tự ngã triều dĩ lai, [...] sổ thập niên bất tằng dụng
binh, kỳ quốc trung phú thứ).
(9) Sắc chỉ đề ngày 14 tháng 12 năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1407), Việt
kiệu thư, Sđd; Q.2, tờ 24a. Nguyên văn: 頓 兵 江 上 與 賊 相 持 。黎 賊 之 計 正 欲 持 久 以 待 瘴 癘 之 發 。破 之 貴 在 神 速。不 宜 遲 緩 (Đốn binh giang thượng dữ tặc tương trì, Lê tặc
chi kế chính dục trì cửu dĩ đãi chướng lệ phát. Phá chi quý tại thần tốc, bất
nghi trì hoãn).
(10) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch, 1971, Sđd;
tr. 262.
(11) Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2, tờ 22a đề rõ, ngày 6 tháng Chín năm
Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Minh Thành Tổ ban hành một điều khoản như sau: 安 南 金 場 。銀 場 遙 聞 原 是 占 城 之 地 而界 相 爭 已 久 。亦 未 可 信 。平 定 之 後 。只 以 見 得 地 界 為 準 。縱 然 占 城 有 請 亦 不 可 擬 還(An Nam kim trường, ngân
trường dao văn nguyên thị Chiêm Thành chi địa, nhi giới tương tranh dĩ cửu,
diệc vị khả tín. Bình định chi hậu, chỉ dĩ kiến đắc địa giới vi chuẩn.
Túng
nhiên Chiêm Thành hữu thỉnh, diệc bất khả nghĩ hoàn). Nghĩa là: Từ xa trẫm nghe
nói mỏ vàng mỏ bạc nguyên là phần đất Chiêm Thành, địa giới hai bên tranh chấp
đã lâu, cũng chưa rõ thế nào. Sau khi bình định xong, cứ lấy địa giới mà mình
trông thấy làm chuẩn, nếu Chiêm Thành có cầu xin cũng không trả.
(12), (13) Đại Việt sử ký toàn thư, Tập II, Cao Huy Giu dịch,
1971, Sđd; tr. 250, 262.
(14) Sắc chỉ đề ngày 4 tháng Mười một năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406),
Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 23b. Nguyên văn: 大 軍 入 安 南 。但 有 助 黎 寇 來 拒 敵 者 殺 之 。 若 有 能 棄 甲卻 戈 降 者。一 人 不 可 妄 殺 (Đại quân nhập An Nam, đãn hữu trợ Lê khấu lai
cự địch giả, sát chi.
Nhược hữu năng khí giáp khước qua hàng giả, nhất nhân bất
khả võng sát).
(15) Sắc chỉ đề ngày 16 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 4 (1406), Việt
kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 22b. Nguyên văn: 其 有 年 少 而 罪 當 死 者 。宜 處 以 宮 刑 。亦 可 以 保 全 其 命 。他 日 又 得 以克 使 令 (Kỳ hữu niên thiếu nhi tội đáng tử giả, nghi xử
dĩ cung hình, diệc khả dĩ bảo toàn kỳ mệnh, tha nhật hựu đắc dĩ khắc sử lệnh).
(16) Sắc chỉ đề ngày 29 tháng Chín năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt
kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 37b.
(17) Sắc chỉ đề ngày 20 tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt
kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 29b. Nguyên văn: 敕 傳 奏 言 裴 伯 耆 事 為 將 之 。道 在 於 用 人 。一 裴 伯 耆 不 能 用 何 以 能成 事 功 俠 。朕 有 南 鄙 又 憂 。古 人 用 人 之 法 具 右 方 冊 。爾 宜 審 觀 故 敕 (Sắc truyền tấu ngôn Bùi Bá Kỳ sự vi tương chi.
Đạo tại ư dụng nhân, nhất Bùi Bá Kỳ bất năng dụng, hà dĩ năng thành sự công
hiệp? Trẫm hữu Nam bỉ hựu ưu. Cổ nhân dụng nhân chi pháp cụ hữu phương sách,
nhĩ nghi thẩm quan cố sắc).
(18) Sắc chỉ đề ngày 22 tháng Giêng năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),
Việt kiệu thư, Q. 2, Sđd; tờ 25b - 26a. Nguyên văn: 凡 安 南 官 吏 來 歸 降 者 。即 陸 續 遣 之 來 朝 。聽 朕 面 諭 。給 與 印信 俾 還 管 事 。如 或 事 世 未 可 又 在 。隨 宜 處 置 。不 可 執 一 (Phàm An Nam quan lại
lai quy hàng giả, tức lục tục khiển chi lai triều, thính trẫm diện dụ, cấp dữ
ấn tín, tỷ hoàn quản sự. Nhu hoặc sự thế vị khả hựu tại, tùy nghi xử trí, bất
khả chấp nhất).
(19) Điều thứ tư trong Sắc chỉ bí mật, đề ngày 4 tháng Bảy nhuận
năm Vĩnh Lạc thứ 4 (21.8.1406), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 17a. Nguyên văn: 訪 問 古 時 銅 柱 所 在 亦 便 碎 之。委 之 於 道 以 示 國 人 (Phỏng vấn cổ thời đồng
trụ sở tại, diệc tiện toái chi, uỷ chi ư đạo dĩ thị quốc nhân).
(20) Điều ghi thêm thứ hai trong Sắc chỉ đề ngày 9 tháng Giêng năm
Vĩnh Lạc thứ 5 (1407),Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 25b.
(21) Trích thư bọc sáp của tướng Minh Vương Thông gửi về nước năm
1427. Một viên quan cai trị khác của nhà Minh là Giải Tấn cũng từng tâu lên vua
Minh những lời tương tự. Xem Đại Việt sử ký toàn thư, Tập III, Cao Huy Giu
dịch, NXB Khoa học xã hội, in lần thứ hai, H., 1972; tr. 47.
(22) “Chiếu bá cáo thiên hạ về việc bình định An Nam”, đề ngày 1
tháng Ba năm Vĩnh Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 27b. Nguyên
văn: 自 以 為 道 優 於 三 王 。 德 高 於 五 帝。以 禹 湯 文 武 不 足 法 。周 公 孔 子 為 不 足 師 。毀 孟 子 為 盜 儒 。謗 周 程 張 朱 為 剽 竊 。欺聖 欺 天 。無 倫 無 理 (... tự dĩ vi đạo ưu ư
Tam vương, đức cao ư Ngũ đế, dĩ Vũ Thang Văn Vũ bất túc pháp, Chu Công Khổng Tử
vi bất túc sư, hủy Mạnh Tử vi đạo Nho, báng Chu Trình Trương Chu vi phiếu
thiết. Khi thánh khi thiên, vô luân vô lý).
(23) Sắc chỉ bí mật, ban bố 10 điều cho quân lính tuân theo, xếp
thứ tự ngay sau đạo sắc đề ngày 4 tháng Bảy nhuận năm Vĩnh Lạc thứ 4
(21.8.1406). Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 16a - 17b. Nguyên văn: 兵 入 。除 釋 道 經 板 經 文 不 燬 。外 一 切 書 板 文 字 以 至 俚 俗 童 蒙 所 習。如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻 字 悉 皆 燬 之 。其 境 內 中 國 所 立 碑 刻 則 存 之 。 但 是 安南 所 立 者 悉 壞 之 。 一 字 不 存 (Binh nhập, trừ Thích,
Đạo kinh bản kinh văn bất hủy. Ngoại nhất thiết thư bản văn tự dĩ chí lý tục
đồng mông sở tập, như “Thượng đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự
tất giai hủy chi. Kỳ cảnh nội Trung Quốc sở lập bi khắc tắc tồn chi. Đãn thị An
Nam sở lập giả tất hoại chi, nhất tự bất tồn).
(24) Điều khoản bổ sung vào sắc chỉ đề ngày 21 tháng Năm năm Vĩnh
Lạc thứ 5 (1407), Việt kiệu thư, Q. 2, tờ 33a. Nguyên văn: 屢 嘗 諭 爾 凡 安 南 所 有 一 切 書 板 文 字 。 以 至 俚 俗 童蒙 所 習 。 如 上 大 人 丘 乙 已 之 類 。片 紙 隻字及 彼 處 自 立 碑 刻 。見 者 即 便 毀 壞勿存 。今 聞軍 中 所 得 文 字 不 即 令 軍 人 焚 毀 。必 檢 視 然 後 焚 之 。 且 軍 人 多 不 識 字 。 若 一 一 令 其如 此 。必 致 傳 遞 遺 失 者 多 。爾 今 宜 一 如 前 敕 。號 令 軍 中 但 遇 彼 處 所 有 一 應 文 字 即 便焚 毀 。 毋 得 存 留 (Lũ thường dụ nhĩ, phàm
An Nam sở hữu nhất thiết thư bản văn tự, dĩ chí lý tục đồng mông sở tập, như “Thượng
đại nhân Khưu ất dĩ” chi loại, phiến chỉ chích tự cập bỉ xứ tự lập bi khắc,
kiến giả tức tiện hủy hoại vật tồn.
Kim văn quân trung sở đắc văn tự bất tức
lệnh quân nhân phần hủy, tất kiểm thị nhiên hậu phần chi. Thả quân nhân đa bất
thức tự, nhược nhất nhất lệnh kỳ như thử, tất trí truyền đệ di thất giả đa. Nhĩ
kim nghi nhất như tiền sắc, hiệu lệnh quân trung đãn ngộ bỉ xứ sở hữu nhất ứng
văn tự tức tiện phần hủy, vô đắc tồn lưu).
(25) Chỉ người Việt.
(26) Sắc chỉ đề ngày19 tháng Năm năm Vĩnh Lạc thứ 5 (25.6.1407),
Việt kiệu thư, Sđd, Q. 2; tờ 32a. Nguyên văn: 今 安 南 已 平 [。 。 。] 除 制 諭 外 應 發 去手 敕及 記 事 小 帖 成 國 公 領 帶去 小 冊 子。及 條 畫 事 件 。盡 數 檢 對 。 密 封 繳 來 。 不 許 存 留 一 字 。 漏 落 在 彼 不 便 (Kim An Nam dĩ bình [...] Trừ chế dụ ngoại ứng
phát khứ thủ sắc, cập ký sự tiểu thiếp Thành Quốc công lĩnh đới khứ tiểu sách
tử, cập điều hoạch sự kiện, tận số kiểm đối, mật phong kiểu lai. Bất hứa tồn
lưu nhất tự, lậu lạc tại bỉ bất tiện).
Thông Tin Đức Quốc - http://www.ttdq.de/node/1762
__._,_.___
No comments:
Post a Comment