Trung Quốc rút
giàn khoan, căng thẳng có chấm dứt?
Từ chối nhận
đơn tố cáo của công dân vì dám 'đấu tranh nhân quyền'
Hành động rút giàn khoan tuy
có thể giúp tránh các nguy cơ xung đột quân sự, nhưng không đủ để hàn gắn mối
quan hệ giữa Việt-Trung.
·
·
·
Tin
liên hệ
- Trung Quốc muốn xây nhà máy khí hóa lỏng nổi trên Biển
Đông
- Ra mắt 2 tàu pháo tên lửa đầu tiên do Việt Nam đóng
Hình ảnh/Video
Video
Truyền hình vệ tinh VOA Asia 19/7/2014
Ðường dẫn
Cập nhật: 21.07.2014 09:40
Trung Quốc loan báo rút giàn
khoan Hải Dương ra khỏi địa điểm Hà Nội nói thuộc vùng đặc quyền kinh tế và
thềm lục địa Việt Nam hôm 15/7, sớm 1 tháng so với kế hoạch ban đầu trước khi
trận bão Rammasun quét qua Biển Đông.
Hai tháng thăm dò của giàn khoan mà Bắc Kinh mô
tả là ‘suôn sẻ’ đã gây ra phản ứng giận dữ cho người dân Việt Nam và các chỉ
trích mạnh mẽ từ quốc tế đối với hành động ‘gây hấn’ ‘bất chấp luật pháp quốc
tế’ của Trung Quốc.
Hành động rút giàn khoan ra khỏi quần đảo Hoàng
Sa tuy có thể giúp tránh các nguy cơ xung đột quân sự, nhưng không đủ để hàn
gắn các mối quan hệ giữa Việt-Trung và nhân dân hai nước láng giềng.
Trong cuộc phỏng vấn với Trà Mi Ban Việt ngữ tối
ngày 21/7, phóng viên đài VOA Poch Reasey đang có mặt tại Hà Nội cho biết người
dân Việt nói không với hàng Trung Quốc, truyền thông nhà nước cổ xúy tinh thần
dân tộc, chính phủ mở chiến dịch quảng bá du lịch trong lúc du khách Trung Quốc
ồ ạt tẩy chay đích đến Việt Nam.
Bấm để nghe toàn bộ cuộc phỏng vấn
- Danh mục
- Tải
Trà Mi: Sau 2 ngày có
mặt tại Hà Nội, anh ghi nhận tình hình thế nào? Mọi chuyện đã thật sự lắng dịu
hay chưa sau khi Trung Quốc rút giàn khoan Hải Dương ra khỏi vùng Việt Nam nhận
chủ quyền ở Biển Đông?
Poch Reasey: Khi tôi tới sân
bay Nội Bài, trên taxi về khách sạn, tôi có cơ hội hỏi thăm người lái taxi về
tình hình ở Hà Nội ra sao sau khi Trung Quốc rút giàn khoan. Anh ta nói khách
du lịch Trung Quốc giảm rất nhiều, không còn như hồi trước khi căng thẳng xảy
ra. Khi tới khách sạn, tôi có gặp mấy người khách nói tiếng Hoa, tôi hỏi họ từ
đâu đến. Họ nói họ là người Đài Loan chứ không phải Trung Quốc. Ra đường tôi
cũng không thấy khách du lịch Trung Quốc. Ở Campuchia, ra đường thấy khách du
lịch Trung Quốc rất nhiều, nhưng ở Hà Nội tôi không thấy gì cả.
Trà Mi: Anh có hỏi chuyện người
dân Việt về phản ứng của họ trước việc Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi khu
vực Việt Nam nhận chủ quyền hay không?
Phóng viên VOA Reasey
Poch.
Poch Reasey: Tôi có cơ hội gặp và nói
chuyện với sinh viên Việt Nam. Họ nói họ rất ngạc nhiên khi Trung Quốc làm việc
đó, nhưng họ không muốn chiến tranh với Trung Quốc vì họ cũng lo, cũng sợ. Họ nói
Việt Nam đã qua nhiều chiến tranh trước nay rồi, bây giờ không muốn chiến tranh
nữa, chỉ muốn hòa bình với Trung Quốc.
Trà Mi: Khi giàn khoan hiện diện
trong vùng đặc quyền kinh tế Việt Nam, người dân Việt phản ứng rất phẫn nộ với
những cuộc xuống đường dẫn tới bạo động. Sau khi Trung Quốc rút giàn khoan đi,
tình cảm của người dân Việt thế nào?
Poch Reasey: Đọc báo và xem TV,
tôi nhận thấy nhân dân Việt Nam cảm thấy đỡ hơn. Họ thấy căng thẳng bớt rồi.
Chính phủ Việt Nam cũng có tổ chức một tour du lịch quảng bá du lịch Việt Nam
Thân thiết và An toàn. Trong tour có 20-30 nhà báo từ các nước tham gia. Họ đi
Hà Nội, Hạ Long, Hội An, Đà Nẵng, TPHCM…v..v..
Trà Mi: Tour du lịch đó
được tổ chức vào thời điểm nào?
Poch Reasey: Tour đó khoảng 1
tuần hay 10 ngày trước và giờ đã xong.
Trà Mi: Anh nói người dân Việt
thấy căng thẳng giảm bớt sau khi giàn khoan rút đi, nhưng lòng tin của họ thì
như thế nào?
Poch Reasey: Điều đó tôi chưa
có dịp hỏi thăm.
Trà Mi: Anh thấy suy nghĩ của
người dân Việt đối với Trung Quốc hiện giờ ra sao trên thang điểm từ 1-10?
Poch Reasey: Tôi nói chuyện với sinh
viên, có hỏi cảm nhận của họ. Họ nói khi mua đồ thấy hàng của Trung Quốc, họ
không muốn mua. Họ mua đồ của nước khác hoặc đồ sản xuất nội địa, không muốn
mua hàng Trung Quốc. Một số người nói chuyện này là một điểm tốt.
Trà Mi: Ra đường anh có thấy
những hình ảnh nào liên hệ tới Trung Quốc hay không?
Poch Reasey: Sáng nay tôi ra đường,
ngay trên xe taxi tôi thấy tấm decal đề cao chủ nghĩa dân tộc của Việt Nam. Lúc
trước nghe nói còn có nhiều hơn nữa, bây giờ thì ít.
Trà Mi: Ngoài ra, anh có thấy
hình ảnh nào về Trung Quốc trên đường phố không?
Poch Reasey: Không, tôi không thấy
gì.
Trà Mi: Hình ảnh Trung Quốc
trong lòng người dân Việt hiện nay thế nào, anh có thăm dò điều đó?
Poch Reasey: Chuyện đó, tôi hy vọng mấy
ngày sau sẽ có cơ hội hỏi và tìm hiểu thêm ở người dân Việt Nam.
Trà Mi: Thế còn tình
hình về Biển Đông?
Poch Reasey: Coi TV Việt Nam không
thấy họ nói gì nữa nhưng các phương tiện phát thanh-phát hình Việt Nam có phát
sóng bài hát mới nói về Biển Đông và chủ nghĩa dân tộc. Chính phủ thì không có
nói nhiều nữa, nhưng trên báo chí thì vẫn còn đăng về chuyện đó.
Trà Mi: Cảm ơn anh Reasey rất
nhiều về những ghi nhận vừa rồi từ Việt Nam.
HD-981 : Việt Nam không nên sập bẫy ‘song phương’ và ‘không kiện’ Trung Quốc
Dàn khoan Hải Dương HD-981 (DR)
Sau hơn hai tháng cho
giàn khoan HD-981 vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngoài Biển Đông, khuấy động quan hệ giữa Bắc Kinh và Hà Nội, ngày 15/07/2014
vừa qua, Trung Quốc đã di chuyển giàn khoan về hướng đảo Hải Nam. Quyết định - được Bắc Kinh loan báo một hôm sau đó - đã
làm cho tình hình bớt căng thẳng – nhưng cũng làm dấy lên nhiều câu hỏi về dụng tâm thực sự của Trung Quốc.
Giới chuyên gia đều ghi nhận là việc Bắc Kinh « cho rút » giàn khoan diễn ra ít lâu sau khi Thượng viện Mỹ, trong một cử chỉ hiếm thấy, đã bỏ phiếu nhất trí thông qua một Nghị quyết lên án hành vi khiêu khích của Trung Quốc, và yêu cầu Bắc Kinh trả lại hiện trạng cho khu vực, và sau một cuộc điện đàm giữa Tổng thống Mỹ Barack Obama và Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình.
Quyết định rút sớm hơn thời hạn dự trù ban đầu cũng được đưa ra một tháng trước Hội nghị Ngoại trưởng thường niên của Khối ASEAN và các đối tác tại Miến Điện, đặc biệt là hội nghị thường niên của Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN (ARF), trong bối cảnh có tin là Mỹ sẽ nêu bật các hành động của Trung Quốc.
Còn đối với Việt Nam, việc Trung Quốc hạ nhiệt căng thẳng cũng diễn ra và lúc Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam chuẩn bị hội nghi bàn về Biển Đông và cân nhắc khả năng kiện Trung Quốc ra trước quốc tế.
Trong những ngày qua, đã có rất nhiều chuyên gia phân tích về động thái hạ nhiệt của Trung Quốc ngoài Biển Đông. Hôm nay, RFI xin giới thiệu nhận định của Giáo sư Ngô Vĩnh Long, một nhà nghiên cứu kỳ cựu về Biển Đông tại trường Đại Học Maine, Hoa Kỳ.
Đối với Giáo sư Long, tham vọng khống chế toàn bộ Biển Đông của Trung Quốc không thay đổi, và Việt Nam vẫn là đối tượng cần tấn công để thực hiện ý đồ đó. Theo Giáo sư Long, quyết định rút giàn khoan còn nằm trong một âm mưu lôi kéo Việt Nam vào con dường đàm phán song phương để giải quyết căng thẳng do chính Bắc Kinh tạo ra, đồng thời thúc giục Việt Nam từ bỏ ý định kiện Trung Quốc ra trước tòa án quốc tế về vấn đề Biển Đông.
Đó là những cái bẫy mà Việt Nam không nên rơi vào nếu muốn bảo vệ lợi ích dân tộc.
Sau đây là toàn văn
bài phỏng vấn Giáo sư Ngô Vĩnh Long.
Giàn khoan đến và đi đều nhằm mục tiêu chính trị : Uy hiếp Việt Nam
"Ngay từ đầu khi Trung Quốc cắm giàn khoan cách đảo Tri Tôn khoảng 18 dặm, và nói rằng nó hoạt động trong vùng biển không có tranh chấp của quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc, lý do chính là lý do chính trị : Uy hiếp Việt Nam, đặc biệt là chính quyền Việt Nam, cũng như để dò xét phản ứng của các nước trong khu vực và trên thế giới.
Nay, động thái dịch chuyển giàn khoan của Trung Quốc cũng là để thử xem phản ứng của Việt Nam và của các nước khác trên thế giới, đặc biệt là Hoa Kỳ, để Trung Quốc quyết định các bước tiếp theo.
Nếu Trung Quốc thực sự rút giàn khoan về đảo Hải Nam, thì đó cũng là để chứng minh rằng Trung Quốc đã hay là đang hạ nhiệt, do đó Việt Nam không nên kiện Trung Quốc nữa mà nên đàm phán tay đôi với Trung Quốc.
Hạ nhiệt để "dụ dỗ" Việt Nam đàm phán tay đôi và
không kiện Trung Quốc
Tôi nghĩ rằng đây là việc dẫn dụ, dụ dỗ Việt Nam, và tôi cũng hơi lo là vì ngày 16/07, ông Lê Hải Bình, phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Việt Nam Việt Nam cho biết là Việt Nam mong muốn thông qua đàm phán hữu nghị để giải quyết các vấn đề tranh chấp, bất đồng ở Biển Đông với Trung Quốc. Lẽ dĩ nhiên là trên cơ sở luật pháp quốc tế, và cũng yêu cầu Trung Quốc không đưa giàn khoan HD-981 quay trở lại.
Nhưng mà nếu Trung Quốc không đưa HD-981 mà đưa 4, 5 cái giàn khoan nhỏ trở lại thì lúc đó Việt Nam làm gì ? Cho nên tôi nghĩ đây
là vấn đề Trung Quốc muốn thử xem Việt Nam phản ứng như thế nào.
Nếu Việt Nam đàm phán song phương với Trung Quốc, việc này sẽ giúp cho Trung Quốc biện hộ rằng tranh chấp ở Biển Đông chỉ liên quan đến hai nước Việt Nam và Trung Quốc mà thôi, và không một nước nào khác được can dự vào.
Trung Quốc đã nhiều lần nói công khai với Mỹ là không được xía vào công việc nội bộ của các nước trong khu vực. Cho nên, nếu Việt Nam cho thế giới biết, hay là thế giới nghĩ lầm Việt Nam muốn thông qua đàm phán song phương để giải quyết vấn đề, thì việc đó sẽ làm hỏng cẳng Mỹ và đồng minh, đặc biệt trong vấn đề họ muốn đưa căng thẳng ở Biển Đông ra Diễn đàn An ninh Khu vực ASEAN, tức là ARF, vào tháng tới ở Miến Điện.
Mưu đồ của Trung Quốc : Làm Mỹ hụt chân
Ngoài việc muốn làm hụt cẳng Mỹ tại Diễn đàn ARF vào tháng tới, thì Trung Quốc cũng muốn làm cho Việt Nam mất đi sự ủng hộ của các nước khác ở trong khu vực nếu đi đàm phán song phương với Trung Quốc, đặc biệt là chia rẽ quan hệ giữa Việt Nam và Philippines.
Ngoài ra, vừa qua, Thượng viện Mỹ đã bỏ phiếu hoàn toàn nhất trí nói rằng Trung Quốc không nên tiếp tục gây hấn và hy vọng rằng Trung Quốc đưa mọi việc trở về vị trí cũ, tức là trước ngày 02/05. Thì Trung Quốc di chuyển giàn khoan như để nói với Thượng viện Mỹ rằng « tôi đã hạ nhiệt rồi, thì các anh không nên tiếp tục làm áp lực trên tôi »....
Nếu Thượng viện Mỹ thấy rằng không cần phải làm áp lực trên Trung Quốc nữa, thì có thể là chính quyền Obama cũng không làm áp lực trên Trung Quốc nữa. Mà áp lực của Mỹ là quan trọng nhất, Mỹ mà nới tay thì Trung Quốc thấy rằng họ có cớ lấn tới thêm, không những đối với Việt Nam, mà cả đối với Mỹ.
Bài học cho Việt Nam : Trung Quốc mềm nắm rắn buông
Bài học đầu tiên là Trung Quốc có thái độ mềm nắn rắn buông. Trung Quốc hiện tỏ thái độ « buông » trước hết là vì phản ứng của người dân Việt Nam. Tôi nghĩ là Trung Quốc biết phản ứng của các lãnh đạo Việt Nam như thế nào, nhưng họ không ngờ rằng phản ứng của người dân Việt Nam mạnh như thế.
Thành ra lúc này
Trung Quốc hạ nhiệt chút xíu để cho giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là thành phần thiên về Trung Quốc – đang trong thế yếu - có tiếng nói mạnh hơn.
Ngoài ra, Việt Nam sắp có Hội nghị Trung ương để bàn riêng về tình hình Biển Đông và về việc có nên kiện Trung Quốc ra Tòa án Quốc tế hay không. Trung Quốc hạ nhiệt để chính quyền Việt Nam và Hội nghị Trung ương thôi không bàn đến chuyện kiện Trung Quốc nữa, và như vậy, Trung Quốc có thể tiếp tục ép Việt Nam.
Bài học là Việt Nam mà yên lặng hơn, thì Trung Quốc sẽ đẩy tới hơn. Và nếu chính phủ Mỹ, Quốc hội Mỹ và các nước khác Nhật, Úc cũng thấy là vấn đề đã tạm yên rồi thì họ có thể cứ để cho yên và Trung Quốc trước sau gì cũng sẽ quay trở lại, và lần sau sẽ làm mạnh hơn một chút.
Xu hướng thân Bắc Kinh trong giới lãnh đạo Việt Nam
Việc cắm giàn khoan trong thềm lục địa Việt Nam là một chính sách uy hiếp giới lãnh đạo Việt Nam, đặc biệt là Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam.
Bộ Chính trị chia thành ba nhóm, số đông thân Trung Quốc, số « trung lập » tức là không biết nghiêng về ai, và số ít hơn thì muốn kiện Trung Quốc. Cho nên khi cắm giàn khoan, Trung Quốc muốn thử xem phản ứng của Bộ Chính trị đảng Cộng sản Việt Nam như thế nào…
Phản ứng của Việt Nam cho thấy là Bộ Chính trị chưa có một chính sách đàng hoàng để kiện Trung Quốc.
Đó là trong lúc tình
hình đang căng thẳng. Còn bây giờ Trung Quốc hạ nhiệt và làm giảm sự căng thẳng đi, thì có thể là Việt Nam sẽ không quyết định kiện Trung Quốc ra tòa án trọng tài theo phụ lục 7 của UNCLOS, chung với Philippines hay là riêng rẽ.
Nguy cơ mất đi hậu thuẫn của người dân Việt Nam và của quốc tế
Nếu như vậy, Chính quyền Việt Nam không những mất đi sự ủng hộ của dân chúng trong nước, mà cũng sẽ mất sự ủng hộ của các nước trong khu vực và của nhân dân trên thế giới. Việc đó sẽ làm suy yếu các lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam nói riêng, và Nhà nước Việt Nam nói chung.
Và nếu như vậy thì Trung Quốc thấy là họ đã kéo thêm được vào quỹ đạo của Trung Quốc, và nếu mà mọi người đều nghĩ rằng Việt Nam đã bị Trung Quốc kéo sâu thêm vào trong quỹ đạo của họ thì có thể là họ sẽ từ bỏ Việt Nam và đi đêm với Trung Quốc...
Vấn đề kiện Trung Quốc không phải là vấn đề thắng hay là thua, mà
là vấn đề vận động chính trị. Nếu Việt Nam không kiện Trung Quốc, tức là Việt Nam đã chứng minh cho thế giới là Việt Nam chịu thua Trung Quốc, và nếu như vậy thì những nước khác họ sẽ suy nghĩ lại và có chính sách riêng của họ...
Nói dối, Lối sống của Cộng sản
Kinh hoàng những con số về nói dối của học sinh, sinh viên Việt
Nam trong thời CS. Học sinh cấp I, 22%, cấp II, 50%, cấp III, 64%, và sinh viên
80% nói dối cha mẹ! “Tỷ lệ này tăng phi mã, càng học lên cao càng thạo nói
dối”, nói dối ngay trong giai đoạn còn “tuổi ngọc, mới rời nôi ‘nhân chi sơ’
chưa được mấy năm mà các em đánh mất ‘tính bản thiện’!”. Và trong “nỗi ngạc
nhiên đến xót xa ấy”, Ô. Nguyễn quang Thân viết trong bài “Ai dạy trẻ nói dối”
báo động về “kết quả sững sờ” được Đài Á châu Tự do dùng để điểm blog cho biết,
“mọi người vẫn muốn tự vấn” dù câu trả lời “đã có sẵn”, đó là: cái thói giới
trẻ nói dối này từ đâu ra.”
Mới nghe những con số
nói dối kinh hồn của học sinh, sinh viên VN, người viết bài này không dám tin
lỗ tai mình, nên phải sưu khảo. Đọc kỹ lại bài, xem kỹ lại nguồn tin, tìm hiểu
kỹ tài liệu, thì thấy những con số kinh hoàng này nói có sách mắch có chứng. Đó
là kết quả sưu khảo của Trung tâm Xã hội học VN, của Đảng Nhà Nước VNCS, chớ
không phải của những người dân Việt ăn ngay, nói thẳng, nói thật về tình hình,
thời sự VNCS nên bị CSVN chụp mũ là ‘lực lượng thù địch” trong Nghị Quyết 36
của CS Hà nội.
Không lẽ CS Hà nội lại
đi nói xấu CS Hà nội nên có đủ lý lẽ để tin những con số kinh hoàng này là có
thật. Và con số thực tế có thể còn tồi tệ hơn nữa là đằng khác vì thói quen của
CS là ‘bao che’ những cái xấu CS. CS sợ phạm huý nên dùng chữ ‘tiêu cực’ dịch
từ chữ negative của Mỹ. Và từ đó người Việt thấy tội nghiệp cho hoc sinh, sinh
viên Việt Nam sanh ra, lớn lên trong thời CS, bị chế độ CS ‘cải tạo, giáo dục,
đào bồi’, thuần hoá theo “văn hoá” (chữ dùng của CS) hay lối sống (chữ thường
dùng của người Việt) nói dối.
Theo xã hội học, gia
đình là tế bào của xã hội. Cha mẹ là những người ruột thịt trong nhà, ngoài xã
hội suốt đời của một người. Trường học nói chung là môi trường xã hội hoá đầu
đời của một con người. Xã hội là nơi con người sống với người khác. Ba môi
trường này có tương quan cơ hữu với nhau. Chế độ chánh trị chi phối và bao trùm
cả ba môi trường này. Học sinh, sinh viên dối cha, dối mẹ tỷ lệ kinh hồn như
trên trong thời CS không thể không nói không do chế độ chánh trị – người dân VN
nằm trong chế độ độc tài toàn diện của CS ngoài Bắc hơn nửa thế kỷ, trong Nam
hơn một phần ba thế kỷ, tính ra hai ba thế hệ xã hội học.
25% các ứng viên thường
nói dối về bản thân mình tại các cuộc phỏng vấn
Chớ
thời trước CS, thời chánh quyền của người Việt Quốc Gia, học sinh, sinh viên
đâu có tệ lậu như vậy. Ngay thời Pháp Thuộc tám mươi mấy năm, học sinh sinh
viên Việt Nam, chính những người CS thời Việt Minh cũng ca ngợi “Học sinh là
người Tổ Quốc mong cho mai sau”, và Bộ Thuộc Địa Pháp cũng thừa nhận con đường
đi Pháp là con đường chống Pháp.
Còn thời VN Cộng Hoà,
chính sách giáo dục Việt Nam Cộng Hoà coi môn Đức Dục là môn học không thể
thiếu được đối với học sinh, được đưa vào các lớp tiểu học là nền giáo dục căn
bản nhứt của con người. Lớp nào cũng treo câu cách ngôn ‘Tiên Học Lễ Hậu Học
Văn’, mà thành thật là nồng cốt của lễ, của đạo người ta ở đời. Nên học sinh,
sinh viên không dối trá kinh hồn như thời CS, với tỷ lệ phản đạo đức quá cao
như vậy.
Học sinh, sinh viên
thới CS sở dĩ dối trá kinh khủng như vậy vì không dối thì không sống nổi trong
chế độ CS. Lớp trẻ này bị tiêm nhiễm lối sống nói dối để sống với CS, trong
thời CS ngay trong gia đình với cha mẹ bị ‘văn hoá nói dối” của CS truyền sang,
áp đặt.
CS cai trị bằng tuyên
truyền dối gạt và khủng bố để củng cố tuyên truyền. Ngây thơ nói thật là chống
lại đảng; chống lại đảng là tiêu tùng. Phụ huynh học sinh phải buôn “chui”, bán
lậu, hối mại quyền thế, tham ô để sống, gia đình cơm no, áo ấm khi đồng lương
tháng nhà nước trả ăn sáng không đủ. Cô giáo, tiểu học phải giảng bài nói dối
theo sách của Đảng, phải bắt học sinh học thêm, phải làm dối cho điểm thêm để
kiếm thêm tiền thì nói dối đó là ‘phụ đạo’. Giám khảo chấm bài thi phải cho
điểm dối để học sinh đậu nhiều, tỷ lệ cao đạt ‘tiêu chuẩn trên’ qui định.
Con cái thấy phụ huynh mình, thầy cô mình nói đối để sống còn,
nhập tâm thành bài học đầu đời khi vào trường “triển khai” tật xấu ấy để “tồn
tại’. Và khi ra đời “triển khai” hơn nữa để sống cho phù họp với văn hoá nói
dối của CS để khỏi bi trù dập vì nói và làm khác Đảng.
Ở bầu thì tròn ở ống
thì dài, đi với bụt mặc áo cà sa, đi với ma mặc áo giấy. Lối sống hay văn hoá
CS thống trị là nói dối và khủng bố thì người dân bị trị phải tuỳ theo để sống,
nếu không sẽ chết, chết vì đói nghèo, chết sinh mạng chánh trị với CS. Vì CS bản
chất, bản tánh là nói dối, luôn dùng chiến thuật kêu gọi phê bình, tự phê, góp
ý, kiến nghị là để dụ dân chúng nói thật, dụ dân chúng trăm hoa đua nở, không
phải để Đảng Nhà Nước sửa chữa, mà để triệt tiêu mầm móng chống Đảng. Mới đây
báo Pháp có phân tích cái kiểu CS dụ nói thật để bắt người này, của Chủ Tịch
Đảng Nhà Nước TC là Tập cận Bình như sau. Nhật báo Le Figaro cho biết Ô. Bình
kêu gọi toàn đảng toàn dân theo gương Mao Chủ Tịch tự phê bình và tố giác hành
vi sai trái. Theo Tờ Nhân dân nhật báo (tiếng nói chính thức của Đảng Cộng sản
Trung Quốc), Đảng Nhà Nước đã chuẩn bị trước các buổi xưng tội từ tháng bảy vừa
qua để đưa lên truyền hình phát toàn TQ.
Nhưng ở TC một tỷ mấy người ai cũng biết Mao Trạch Đông đã dùng
hình thức phê bình và tự phê này làm một công cụ đáng sợ nhằm thanh trừng trong
nội bộ Đảng Cộng sản và loại bỏ những thành phần đối lập với ông.
Và Tập cận Bình không khác Mao Trạch Đông dùng ngón nghề này để thanh trừng nội bộ như diệt Bạc hy Lai, bí thư Trùng Khánh, uỷ viên Bộ Chánh Trị, cũng hoàng tử đỏ như Ông.
Và Tập cận Bình không khác Mao Trạch Đông dùng ngón nghề này để thanh trừng nội bộ như diệt Bạc hy Lai, bí thư Trùng Khánh, uỷ viên Bộ Chánh Trị, cũng hoàng tử đỏ như Ông.
Trong
Đảng với nhau mà CS còn làm dối, nói dối để giết nhau, khủng bố nhau như vậy,
thì người dân đâu có dại gì nói thiệt, để chết hay sao. Thế cho nên người dân
bị CS ‘cải tạo’ phải sống theo ‘văn hoá’ nói dối của CS.
Công thư Phạm Văn Đồng và Hiệp định Genève
1954
Gia Minh, biên tập viên RFA, Bangkok
2014-07-21
2014-07-21
- In trang này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Công hàm ông Phạm Văn Đồng gửi Trung Quốc
Nhiều giới trong và ngoài nước bày tỏ mong
muốn chính phủ Hà Nội kiện Trung Quốc về việc xâm phạm lãnh hải cũng như chiếm
đảo của Việt Nam tại Hoàng Sa và Trường sa.
Có ý kiến đề nghị nên căn cứ vào tinh thần của hiệp định Geneve
1954 và hiệp định Paris 1973 như là một trong những đối sách để Việt Nam có thể
đòi hỏi chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa mà Trung Quốc cưỡng chiếm từ phía Việt
Nam Cộng hòa hồi năm 1974.
Toàn vẹn lãnh thổ : Nội dung đáng lưu ý của Hiệp định Geneve
1954 và Paris 1973
Hội nghị do các nước Mỹ, Anh, Pháp, Nga, Trung
Cộng, Quốc gia Việt Nam và Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa tiến hành tại Geneve, Thụy
Sĩ từ tháng 5 và đến ngày 20 tháng 7 năm 1954 đã đưa ra ba văn kiện ký kết gồm
Hiệp định Đình chiến tại Việt Nam, Hiệp định Đình chiến tại Lào, Hiệp định Đình
chiến tại Cam bốt, và bản Tuyên bố cuối cùng không có chữ ký một ngày sau đó.
Hiệp định Đình chiến tại Việt Nam gồm có 6
chương, 47 điều. Điểm được chú ý là đất nước Việt Nam bị phân chia tại vĩ tuyến
17 với khu phi quân sự 6 dặm chiều ngang dọc theo vĩ tuyến đó. Và trong Tuyến
bố cuối cùng thì đường phân chia chỉ là tạm thời, và đó không được coi là biên
giới quân sự hay chính trị.
Nguyên văn điều 7 của Tuyên bố Cuối cùng ghi
rõ ‘Hội nghị tuyên bố giải pháp cho những vấn đề chính trị ở Việt Nam dựa
trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ sẽ cho phép người
dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết quả tổng tuyển cử tự do
sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956’.
Hiệp định Paris cũng nêu rõ “Hoa Kỳ và các
nước khác tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như
được công nhận bởi Hiệp định Geneva.”
Hội nghị tuyên bố giải pháp cho những vấn đề
chính trị ở Việt Nam dựa trên cơ sở tôn trọng độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh
thổ sẽ cho phép người dân Việt Nam được hưởng nền tự do cơ bản thông qua kết
quả tổng tuyển cử tự do sẽ được tổ chức vào tháng 7 năm 1956’
Nguyên văn điều 7 của
Tuyên bố Cuối
Điều đó có nghĩa các điều khoản của Hiệp định
Geneva về sự toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam được Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và
phía Quốc gia Việt Nam trước đó đều xác nhận chủ quyền trên toàn bộ lãnh thổ
Việt Nam từ Bắc đến Nam, dù trên thực tế mỗi bên chỉ quản lý một nửa mà thôi.
Hiệp định Genève 1954 là hiệp định đình chiến
được kí kết tại thành phố Genève, Thụy Sỹ để khôi phục hòa bình ở Đông Dương.
Tinh thần Hiệp định Geneve: Cơ sở hóa giải Công thư Phạm Văn
Đồng 1958
Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn, hiện sinh
sống tại Pháp, cho rằng lập trường của Việt Nam cũng như của hầu hết các học
giả Việt Nam hiện nay đều cho rằng trong thời gian từ 1954 đến 1976 tồn tại hai
quốc gia Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa và Việt Nam Cộng Hòa là hai quốc gia độc lập
có chủ quyền; như thế sẽ rất bất lợi cho việc kiện về các tranh chấp Hoàng Sa
và Trường Sa.
Ông nói:
Vì « quốc gia » là đối tượng của quốc tế công pháp.
Tức là, các hành vi của VNDCCH (như công hàm 1958 hay những bằng chứng, những
thái độ của VNDCCH trước kia, được hiểu như là hành vi chối bỏ chủ quyền hay
nhìn nhận chủ quyền của TQ tại HS và TS) sẽ được phán xét dưới ánh sáng của
công pháp quốc tế.
Trung Quốc đã chiếm Hoàng Sa trên tay VNCH (với lý do :
giải phóng một vùng lãnh thổ đang bị ngoại nhân chiếm đóng). VNDCCH là một quốc
gia thứ ba, hoàn toàn xa lạ với VNCH. Trong khi CP CMLTMNVN không thể kế thừa
HS từ VNCH, vì không thể kế thừa một lãnh thổ đã mất.
(Đó là chưa nói tới thực thể chính trị MTGPMN được thành lập do
một nghị quyết của đảng CSVN, tức chỉ là một « công cụ » chính trị
của VNDCCH.)
Theo tôi, mình chỉ cần áp dụng đúng đắn tinh
thần Hiệp định Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973 thì hiệu lực công hàm 1958
tự động sẽ bị hóa giải. Vấn đề về kế thừa về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa
cũng sẽ được giải quyết một cách êm thắm theo công pháp quốc tế
Trương Nhân Tuấn
Vào thời điểm 17-1-1974 TQ chiếm HS, chính phủ VNDCCH im lặng
trong khi các nước như Liên Xô, Mỹ... phản đối hành vi sử dụng vũ lực của TQ.
Hành vi im lặng, đối với công pháp quốc tế, được hiểu như là sự đồng thuận ám
thị. Trong khi MTGPMN tuyên bố rằng các tranh chấp phải được giải quyết bằng
thương thuyết. Thực thể chính trị này (cũng như VNDCCH) từ chối ký tên chung
với VNCH trong bản tuyên bố lên án TQ xâm lăng.
Về vấn đề kế thừa, do việc quốc gia là đối tượng của quốc tế
công pháp, cũng là vấn đề thuộc quốc tế công pháp. Quốc gia kế tục (CHXHCNVN)
có quyền lợi (cũng như trách nhiệm) kế thừa di sản kinh tế và chính trị của hai
quốc gia tiền nhiệm, theo như qui định của luật quốc tế (các Công ước Vienne
1969 và 1978). Giả sử rằng CPLT CHMNVN không gặp khó khăn (về pháp lý) để kế
thừa danh nghĩa chủ quyền HS từ VNCH. Thì quốc gia CHXHCNVN cũng không thể cùng
lúc kế thừa hai lập trường đối nghịch : HS và TS là của VN (VNCH) và HS TS
là của TQ (VNDCCH). Việc kế thừa HS và TS sẽ gặp bế tắc.
Như vậy, khi cho rằng VNCH (và VNDCCH) là hai quốc gia « độc
lập, có chủ quyền », vấn đề tranh chấp Hoàng Sa sẽ không còn hiện hữu. VN
hiện nay (cũng như các thế hệ VN trong tương lai) sẽ không có cách nào để
thuyết phục dư luận quốc tế rằng « có tranh chấp » tại Hoàng Sa, chứ
đừng nói đòi lại.
Trong cuộc tranh chấp giữa Việt Nam và Trung
Quốc về vụ giàn khoan Hải Dương Thạch Du 981, chính quyển Bắc Kinh đã trình với
Liên hiệp quốc tuyên bố trong đó nêu rõ Công thư của thủ tướng Phạm Văn Đồng
hồi năm 1958 và cho rằng Hà Nội công nhận chủ quyền của Trung Quốc tại hai quần
đảo Tây Sa và Nam Sa, tức Hoàng Sa và Trường Sa.
Trên phương diện thực tế và lịch sử, 20 tháng
7 năm 1954, hiệp định Genève quyết định phân chia quốc gia VN thành hai miền
tại vĩ tuyến 17. Hiệp định nhấn mạnh việc phân chia chỉ tạm thời, đường vĩ
tuyến 17 trong bất kỳ trường hợp nào, không thể xem đó là đường biên giới phân
định lãnh thổ hay chính trị..
Trương Nhân Tuấn
Phía Hà Nội phản bác cho rằng lúc đó Hoàng Sa
và Trường Sa đều thuộc quyền quản lý của Việt Nam Cộng Hòa nên Việt Nam Dân chủ
Cộng Hòa không thể cho đi cái mà họ không có.
Nhà nghiên cứu Trương Nhân Tuấn đưa ra ý kiến
đối với vấn đề vừa nêu:
Theo tôi, mình chỉ cần áp dụng đúng đắn tinh thần Hiệp định
Genève 1954 và Hiệp định Paris 1973 thì hiệu lực công hàm 1958 tự động sẽ bị
hóa giải. Vấn đề về kế thừa về chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa cũng sẽ được
giải quyết một cách êm thắm theo công pháp quốc tế.
Theo tinh thần hai hiệp định quốc tế này, hai thực thể chính trị
VNCH và VNDCCH không phải là hai « quốc gia độc lập, có chủ quyền ».
Trên phương diện thực tế và lịch sử, 20 tháng 7 năm 1954, hiệp
định Genève quyết định phân chia quốc gia VN thành hai miền tại vĩ tuyến 17.
Hiệp định nhấn mạnh việc phân chia chỉ tạm thời, đường vĩ tuyến 17 trong bất kỳ
trường hợp nào, không thể xem đó là đường biên giới phân định lãnh thổ hay
chính trị..
Ông ngày cho rằng năm 1956
VNCH công bố Hiến pháp, điều 1 khẳng định : VN là một nước cộng hòa, độc
lập, thống nhất và bất khả phân. Về phía VNDCCH, Hiến pháp 1946, điều 2 xác
định VN là một khối thống nhất bắc, trung, nam không thể phân chia. Hiến pháp
1959, những dòng đầu đã khẳng định VN là một nước thống nhất từ Lạng sơn đến Cà
Mau.
Như vậy, trên quan điểm
công pháp quốc tế, nước VN chỉ có một, thống nhất ba miền, toàn vẹn lãnh thổ,
độc lập, có chủ quyền.
Chính
phủ Hà Nội luôn gay gắt phủ định chính phủ Sài Gòn, nhất là khi Hà Nội trở
thành ‘bên thắng cuộc’. Tuy nhiên, khi xảy ra căng thẳng tranh chấp lãnh hải giữa
Hà Nội và Bắc Kinh qua vụ giàn khoan Hải Dương 981, bắt đầu có những công khai
đề cập đến Việt Nam Cộng Hòa; dẫu thế cách đặt vấn đề như nhà nghiên cứu Trương
Nhân Tuấn đưa ra vẫn chưa thấy được xem xét một cách công khai.
Trung Quốc: trộn thị ôi thối
vào thịt tươi cung cấp cho
Mc.Donald và KFC
RFA-21-07-2014
- In trang
này
- Chia sẻ
- Ý kiến của Bạn
- Email
Một vụ bê bối về an
toàn thực phẩm lại nổ ra ở trung quốc. Lần này công ty thực phẩm Husi tại Thượng
Hải.
Chính quyền thành phố Thượng Hải đã ra lệnh đóng cửa nhà máy của
công ty này vào ngày hôm qua.
Được biết là nhà máy này đã trộn thịt hết hạn vào các lô thịt
mới để cung cấp cho các nhà hàng trong đó có các nhà hàng thức ăn nhanh
McDonald và KFC.
Truyền hình Thượng hải cho chiếu cảnh công nhân nhặt thịt dưới
sàn lên để cho vào các máy đóng gói. Một công nhân thì ngửi một tảng thịt và
nói là nó thối quá.
Các vụ bê bối về an toàn thực phẩm thường xuyên nổ ra tại Trung
Quốc. Năm 2008 một vụ ngộ độc sữa đã làm thiệt mạng 6 trẻ em và 300,000 người
bị bệnh.
Các thương hiệu quốc tế lớn ở Trung Quốc cũng thường tuyên bố
những biện pháp cẩn trọng đối với thực phẩm tại nước này sau những vụ như trộn
thịt cáo vào thịt lừa hay lấy thịt chuột giả làm thịt cừu.
Tuy nhiên trong vụ công ty thực phẩm Husi ở Thượng Hải thì các
chuyên viên an toàn thực phẩm của McDonald được biết là cũng bị lừa.
TAO MUA HẾT BỌN
BÂY!
HTTP://DANLAMBAOVN.BLOGSPOT.COM/2014/05/HANG-VAN-CONG-NHAN-BINH-DUONG-INH-
|
No comments:
Post a Comment