Monday, 28 July 2014

Nếu Việt Nam nhân nhượng, Trung Quốc sẽ lấn tới

 

Nếu Việt Nam nhân nhượng, Trung Quốc sẽ lấn tới

Nguyễn Phú Trọng ú ớ như Việt gian 


Lê Quỳnh

Khẳng định Việt Nam cần phải kiện Trung Quốc ra Toà án Quốc tế, dù sẽ có những lợi – hại nhất định, trao đổi với Báo điện tử Một Thế Giới, GS Nguyễn Mạnh Hùng – chuyên gia về chính trị và bang giao quốc tế Viện đại học George Mason – cũng cho rằng: cái chính vẫn là tương quan lực lượng.

Tại ngày cuối, ngày 26.7, của Hội nghị quốc tế biển Đông 2014, học giả các nước tiếp tục thảo luận để tìm ra những giải pháp nhằm hạn chế những leo thang của Trung Quốc và nguy cơ xảy ra chiến tranh giữa các nước đang có tranh chấp trên biển Đông.

Luật rừng của Trung Quốc hay luật quốc tế
Dự kiến sẽ trao đổi bài tham luận vào ngày cuối tại hội nghị, nhưng cuối cùng ông Cao Qun, Trung tâm An ninh hàng hải và hợp tác, ĐH Bắc Kinh, Trung Quốc vắng mặt. GS Carl Thayer, chuyên gia nghiên cứu về biển Đông thuộc Học viện quốc phòng Úc thay mặt đọc tham luận của ông Cao Qun, về quan điểm của Trung Quốc khi Philippines kiện Trung Quốc ra Tòa án trọng tài quốc tế về luật biển (UNCLOS).

Trong tham luận, ông Cao Qun liên tục cáo buộc Philippines kiện Trung Quốc là không có cơ sở, vì Trung Quốc chỉ tuyên bố chủ quyền đường chín đoạn của mình, đồng thời cho rằng Trung Quốc không hề vi phạm UNCLOS.

Đồng thời, ông Cao Qun cho rằng, đường chín đoạn đã ra đời rất lâu, từ năm 1947, trước khi UNCLOS ra đời. Trung Quốc có quyền và cơ chế lịch sử, nên Philippines không thể phê phán Trung Quốc đi ngược với UNCLOS được.

“Xa hơn, Philippines đã thất bại trong việc thực hiện nghĩa vụ trao đổi với Trung Quốc về tranh chấp”, ông Cao Qun viết.
Ảnh: L.Quỳnh

Theo ông Renato De Castro, việc Philippines kiện Trung Quốc là hành động phản ứng của nước này khi bị Trung Quốc dồn vào việc phải chấp nhận việc Trung Quốc chiếm bãi cạn Scarboroug vào năm 2012.

Tại hội nghị, phản ứng khá gay gắt với tham luận từ phía Trung Quốc, ông Renato De Castro, đến từ ĐH De La Salle, Philippines, cho rằng Trung Quốc đang thể hiện một sự hung hăng rất lớn khi liên tục thay đổi bản đồ mà không dựa trên cơ sở nào.

Việc Trung Quốc cho rằng đã có đường lưỡi bò trước khi có UNCLOS là không có cơ sở. Nó được thực hiện bởi một cá nhân, mà một cá nhân thì không thể nào xác định được cương thổ quốc gia“.
Ông Lê Vĩnh Trương, đến từ Quỹ Nghiên cứu biển Đông Nam Á.
Mọi buộc tội của Philippines với Trung Quốc đều có cơ sở. Trong vòng 17 năm quan, Trung Quốc luôn “làm ngơ” trước mọi yêu cầu cùng thảo luận về vấn đề tranh chấp trên biển Đông với Philippines, cũng như chưa bao giờ chịu giải thích đường chín đoạn là như thế nào. Vì vậy, các quốc gia có chủ quyền buộc phải đưa Trung quốc ra Tòa án quốc tế.

“Chúng ta phải tôn trọng hệ thống luật quốc tế chứ không thể dùng “luật rừng” như Trung Quốc. Những nước lớn cũng phải tôn trọng luật quốc tế. Quốc gia lớn hay nhỏ đều có lợi ích quốc gia của mình và đều cần được tôn trọng”, ông Renato De Castro nói.

Cần kiện Trung Quốc, nhưng cái chính vẫn là tương quan lực lượng

Chia sẻ quan điểm với Philippines, ông Lê Vĩnh Trương, đến từ Quỹ Nghiên cứu biển Đông Nam Á, việc Việt Nam dùng luật pháp quốc tế, cụ thể là kiện Trung Quốc theo UNCLOS, là phương pháp văn minh, giảm sự leo thang chiến tranh của Trung Quốc, giảm nguy cơ hoặc chấm dứt chiến tranh.

Trong suốt nhiều năm quan, Trung Quốc đã có những hành vi bắt bớ, giết chết ngư dân Việt Nam, cắt cáp, đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào thềm lục địa Việt Nam… Việt Nam đã nỗ lực thương thuyết 26 lần với Trung Quốc nhưng nước này vẫn bặt âm vô tín.

Vì vậy, theo ông Trương, nếu Việt Nam tiếp tục chính sách thương thuyết với Trung Quốc thì sẽ phải hối tiếc về sau. Điều này khiến Trung Quốc sẽ ngày càng gây hấn với Việt Nam hơn, Việt Nam ngày càng nhượng bộ và yếu thế; sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến cái nhìn của người dân Việt Nam lẫn quốc tế.

GS Carl Thayer tại nơi trưng bày chứng cứ Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam bên ngoài hội nghị - Ảnh: L.Quỳnh

Đồng thời, việc kiện Trung Quốc không chỉ là phương pháp chủ động trong ngoại giao, tạo ra những hình ảnh tích cực về chính sách và chính trị cho Việt Nam, mà nó còn là liệu pháp vắc-xin về kinh tế về lâu dài với Việt Nam, đưa Việt Nam ra khỏi bị phụ thuộc vào Trung Quốc. “16 chữ vàng hoặc 4 chữ tốt cũng chỉ là uyển ngữ, đang đi ngược lại tình hình chính trị trong khu vực hiện tại. 

Chúng ta cần dùng mọi biện pháp để giảm nguy cơ chiến tranh. Nếu chỉ dùng duy nhất biện pháp thương thuyết thì đó sẽ là nguy cơ xảy ra chiến tranh”, ông Trương nói.

Theo ông Trương, Việt Nam có thể gặp khó khăn về ngắn hạn, thậm chí trung hạn, nhưng về lâu dài Việt Nam có thể cân bằng về kinh tế, chính trị.

“10% của Việt Nam là xuất khẩu, nhập khẩu là 28%, Trung Quốc là một trong 7 quốc gia đầu tư lớn nhất ở Việt Nam. Nếu Trung Quốc cấm vận thì Việt Nam sẽ bị ảnh hưởng 28%. Nhưng nhìn lại thời kì Việt Nam bị cấm vận 1975 – 1989, Việt Nam bị tác động đến 58%, nhưng sau đó, chỉ mất 2 năm, kinh tế Việt Nam đã phục hồi về xuất khẩu, tìm ra những thị trường khác như Châu Âu, Tây Âu, Châu Mỹ,…”, ông Trương dẫn chứng.

Đồng quan điểm cần kiện Trung Quốc, trao đổi với Một Thế Giới, GS Nguyễn Mạnh Hùng – chuyên gia về chính trị và bang giao quốc tế Viện đại học George Mason – nói: vấn đề là mình kiện gì thôi.
Nhiều nghiên cứu trong và ngoài nước về vấn đề Việt Nam kiện Trung Quốc cho thấy cũng có cái lợi và cái hại, nhưng Việt Nam có nhiều lí do để kiện Trung Quốc. “Việc kiện tương đối thuận lợi cho Việt Nam. Tôi không lo mình bị thất bại. Mình kiện để buộc thế giới phải lên tiếng, và nhất là kiện ra Toà án trọng tài quốc tế thì không có phủ quyết được”, GS Hùng nói.

Tuy nhiên, GS Hùng cho biết thêm, luật pháp chỉ có tính tương đối. Trong trường hợp Việt Nam thắng kiện mà Trung Quốc vẫn tiếp tục có những hành vi gây hấn thì cũng khó làm gì được, vì luật quốc tế không có định chế để thi hành, thành ra nó chỉ có tính cách ngoại giao, cái chính vẫn là tương quan lực lượng.
 Học giả các nước tại hội nghị – ảnh: L.Quỳnh

Cần là một Asian thống nhất, tin tưởng nhau
Thảo luận tại hội nghị, ông Hitoshi Nasu, ĐH quốc gia Australia đề nghị, các nước tranh chấp thay vì ngăn cấm, thì có thể cùng ngồi lại và thống nhất những hành động nào là thù địch và gây thù địch cho đối phương. Điều này sẽ giảm nguy cơ chiến tranh rất lớn. 

Còn GS Carl Thayer cho rằng, trong tình hình hiện nay, bộ Quy tắc ứng xử biển Đông (COC) phải còn mất rất lâu, có thể cả chục năm, để hoàn thiện. Trong khi đó, thực tế khối Asian là một khối bị chia rẽ, với những quyền lợi khác nhau, ngay cả trong nhóm các nước đang tuyên bố bị tranh chấp trên biển Đông cũng bị chia rẽ, không thống nhất trong ứng xử.

Vì vậy, rất cần phải xây dựng được khu hàng hải chung, an toàn, không bị chia cắt, và luật quốc tế được áp dụng cho mọi khu vực hàng hải chung, cả Đông Nam Á, chứ không chỉ biển Đông. Đồng thời, luật pháp quốc tế cũng phải là một phần và lồng ghép vào COC. COC phải được áp dụng toàn bộ vùng biển Đông Nam Á, có như vậy mới tăng được tính đoàn kết và giải quyết được những vấn đề khác. Các lí lẽ, lập luận khi đưa ra toà cũng vì thế mà mang tính thống nhất.

“Thực tế, Trung Quốc đã tham gia nhiều đối thoại về tranh chấp lãnh thổ trên đất liền, cũng đã có một số nhượng bộ, nhưng vấn đề là Trung Quốc ngày càng trở thành cường quốc, không ngừng hiện đại hoá quân sự của mình. 

Vì vậy, nếu muốn giải quyết vấn đề khu vực thì cần lùi lại, nhìn lại bức tranh tổng thể của Trung Quốc. Và cần tăng cường tính thống nhất để Asian mạnh hơn, tăng cán cân khi xử lý, thương thuyết thảo luận với Trung Quốc. Trung Quốc khi đó phải tuân theo quy định quốc tế chứ không thể đánh lẻ. Việc cần xây dựng một hội đồng bảo an chính trị của Asian cũng là đề nghị của tôi”, GS Carl Thayer giải thích.

L.Q

Nguyễn An Dân - Cuộc Chiến Hậu Giàn Khoan

Thứ Bảy, ngày 26 tháng 7 năm 2014


Giữa tháng 7 năm /2014 Trung Quốc chính thức rút giàn khoan HY-981 khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa, chấm dứt một cuộc “dàn quân” và khẩu chiến leo thang có nguy cơ châm ngòi xung đột vũ trang giữa các bên có lợi ích liên quan.

Tuy nhiên, dư chấn của giàn khoan này để lại là không nhỏ. Một cuộc “động đất chính trị” lan tỏa mạnh trong Việt Nam, bắt đầu từ lời tuyên bố được coi là “mạnh mẽ hơn trước đây” của thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng khi nói về ‘tình hữu nghị mơ hồ lệ thuộc” giữa Việt Nam-Trung Quốc và đáp lại là bài viết của báo đảng Trung Quốc khi kêu gọi ‘đứa con hoang đàng Việt Nam hãy trở về”
Theo nhiều luồng dư luận nhận định rằng giàn khoan HY-981 chỉ là mở đầu cho cuộc chiến Mỹ-Trung về ảnh hưởng tại châu Á nói chung và lợi ích địa chính trị tại Biển Đông cùng kênh đào Kra nói riêng của các quốc gia có liên quan.

 Trước âm mưu đó, quốc gia trực tiếp chịu ảnh hưởng nhất là Việt Nam sẽ thế nào? Phải chăng giàn khoan đã được rút đi nhưng cơn chấn động vẫn còn ở lại, một cơn chấn động chính trị cho nội bộ ban lãnh đạo đảng Cộng Sản VN, tuy ngấm ngầm nhưng ngày càng gay go hơn, từ nay đến Đại Hội đảng 2016. Ai sẽ nắm được quyền chủ động? TBT Nguyễn Phú Trọng hay TT Nguyễn Tấn Dũng?

“Nhóm thân Trung Quốc” ?

Lâu nay giới quan sát chính trị Việt Nam cho rằng có sự ảnh hưởng của Trung Quốc vào chính trị Việt Nam qua hội nghị Thành Đô 1990, trong đó có một số thỏa thuận nay đã được hé ra cho quần chúng biết, như “các vấn đề có thể gây ảnh hưởng cho nhau giữa hai đảng- hai nước mà cơ quan ngôn luận của đảng cộng sản Trung Quốc không đăng thì cơ quan ngôn luận đảng cộng sản Việt Nam không đăng” (1)

Cũng trong thời gian có giàn khoan, website tự công bố là “chính thức của thủ tướng”, trang www.nguyentandung.org, đã đăng tải nhiều thông tin lâu nay là “cấm kỵ”, mang tính công kích đảng, như ‘nếu đảng không dẫn dắt nhân dân khởi kiện Trung Quốc thì còn cần đảng lãnh đạo làm gì nữa”, “ngăn cản khởi kiện là phản bội dân tộc”. (2)
Các quan chức của đảng hiện nay vẫn còn nói rằng đang cân nhắc thời điểm hợp lý để có lợi ích lớn nhất khi kiện. Nhân dân thì không hiểu thế nào hợp lý khi mà Trung Quốc đã nổ súng chiếm Hoàng Sa năm 1974, Gạc Ma ở Trường Sa năm 1988, nhất là trong thời gian diễn ra sự việc giàn khoan, đã có 2 ngư dân chết. 

Đã 40 năm qua rồi (tính từ 1974) vẫn chưa có thời điểm hợp lý hay sao, dù Trung Quốc đã bắn chết hàng trăm binh sĩ và người dân, cùng xây nhà, sân bay, trường học ở hai quần đảo Hoàng Sa-Trường Sa?

Sự nhân nhượng lâu nay của “lực lượng duy nhất có đủ uy tín và sáng suốt để lãnh đạo đất nước“ là Đảng Cộng Sản Việt Nam trước Trung Quốc sau một loạt những diễn biến kể trên khiến người ta có thể tin rằng thông tin nói “một bộ phận trong đảng là thân Trung Quốc và bị Trung quốc chi phối” là có cơ sở ?

Nhóm thân Mỹ ?
Một luồng dư luận khác cũng nhận định rằng các đời Thủ tướng Việt Nam, khởi đi từ thời kì đổi mới năm 1986 đến nay, có xu hướng ngả về Phương Tây và Mỹ, để qua đó kêu gọi sự ủng hộ tài chánh, kỹ thuật, nhằm phát triển đất nước.

Đến thời điểm trước 1986, do theo ý thức hệ cộng sản-XHCN, nên quyền lực của chức danh Tổng Bí Thư là lớn nhất, nên khi đó ở chức danh này có thể huy động sự ủng hộ của các quốc gia XHCN khác như Trung Quốc, Liên Xô và các nước Đông Âu. 

Khi mà Việt Nam không liên hệ với thế giới tư bản, chức Thủ tướng được đảng dựng ra để quản lý đất nước trong đối nội, chỉ có vai trò khiêm tốn trong thiết chế quyền lực cộng sản thời kỳ bấy giờ.

Sau khi Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu tan rã, đảng buộc phải thực hiện “đổi mới” , mở cửa bang giao với thế giới tư bản. Theo đó, vai trò của chức danh Thủ tướng dần dần trở nên quan trọng, vì vốn dĩ các quốc gia Châu Âu và Bắc Mỹ giàu có chỉ làm việc với chính phủ, theo đúng truyền thống ngoại giao quốc tế, không làm việc với đảng cầm quyền.

Chức danh thủ tướng Việt Nam từ vai trò “hình nhân thế mạng” ở quá khứ đã dần dần có ưu thế hơn qua việc kiêm lo đối nội lẫn đối ngoại theo quốc tế đòi hỏi. Kết quả là chính phủ có vai trò quan trọng trong việc ban hành chính sách, thương thảo quốc tế, có quyền lực độc lập hơn qua việc huy động được các nguồn hỗ trợ tài chánh bên ngoài từ Mỹ và phương Tây.

Chính vì thế nên sau 1975 đến nay các đời Thủ tướng Việt Nam đều “không yên thân”. Phạm Hùng thì bị chết trong một tai nạn giao thông khi đương chức, Võ Văn Kiệt suýt bị thay thế năm 1990 (vụ Hà Phan), khi về hưu thì bị quản chế, theo dõi, và theo tin đồn, bị “mưu hại” khi muốn lập lại đảng Lao Động. Phan Văn Khải thì than thở với những người thân tín đại ý “chúng nó nắm hết, mình có quyết được gì nhiều đâu”, về hưu khi chưa hết nhiệm kỳ rồi sống tiếp trong im lặng. 

Mới đây là Nguyễn Tấn Dũng suýt bị kỷ luật vì “điều hành kinh tế yếu kém, phai nhạt lý tưởng và đạo đức cách mạng” theo diễn văn tổng kết tại Hội Nghị Trung Ương 6 của đảng năm 2012 (3). 

Phải chăng hệ lụy kéo theo do mâu thuẫn này là cái chết của vài ông tướng thứ trưởng an ninh-tình báo của công an Việt Nam trong mấy năm qua nhằm giấu kín các âm mưu thanh trừng này khỏi vỡ lỡ ?

Các sự kiện đã xảy ra như thế đã làm dư luận sinh ra nghi ngờ, không thiếu cơ sở, rằng lâu nay luôn có tranh chấp mạnh mẽ trong đảng về đường lối đối ngoại “theo Trung hay theo Mỹ” giữa 2 nhóm Tổng Bí Thư và nhóm Thủ Tướng, và cao trào nhất là mấy tháng qua. Và phải chăng đại hội 12 của đảng vào năm 2016 sẽ là hiệp đấu quyết định, do đó Trung Quốc thấy cần rút giàn khoan để tạo lại uy thế cho nhóm thân Trung Quốc trong đảng hiện nay?

Trận chiến hai bên
Từ năm 2012 đến nay, người đứng đầu chính phủ nhiều lần phát ngôn “mang tính chống đối bành trướng Trung Quốc”, nhất là từ khi có giàn khoan, còn người đứng đầu đảng là Tổng Bí Thư thì tập trung vào việc chống tham nhũng. 

Thậm chí ngay khi giàn khoan còn hiện diện, ông Nguyễn Phú Trọng im lặng khá lâu và khi phát ngôn lại thì dù phải chống việc Trung quốc đặt giàn khoan nhưng vẫn luôn cảnh giác phải thận trọng “sai một ly đi một dậm”, vẫn đặt nặng việc bảo vệ đảng, bảo vệ chế độ, cảnh giác âm mưu “diễn biến hòa bình” của “các thế lực thù địch”….

Trong thiết chế một đảng độc quyền lãnh đạo, việc chống tham nhũng trong thực chất thường chỉ là một hình thức thanh trừng nội bộ để củng cố quyền lực hơn là chống tham nhũng thực sự. Việc Tập Cận Bình đang làm với nhóm Chu Vĩnh Khang- Bạc Hy Lai phải chăng sẽ là hình ảnh cuộc chống tham nhũng của Việt Nam trong tương lai gần đến do tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng dẫn dắt để thanh trừng nhóm chống đối phía Thủ tướng?

Và phía Thủ tướng cũng chống tham nhũng để phản công lại. Nếu đảng đem “người được coi là nhóm thủ tướng” là Phạm Thanh Bình ở Vinashin ra xử thì Thủ tướng cũng đem Dương Chí Dũng ở Vinalines ra xử, mà cao trào vụ án này là cái chết của một tướng an ninh lâu nay trung thành với đảng là thượng tướng Phạm Quý Ngọ.

Truyền thông nhà nước nói rằng tướng Ngọ “chết vì bệnh” và sau đó các cơ quan tư pháp Việt Nam tuyên bố khép lại vụ án Vinalines và các lời khai của Dương Chí Dũng về các nhân vật “cao cấp hơn tướng Ngọ”. Tưởng hết chuyện, không ngờ tháng 6 vừa qua, vụ việc lại mở ra lần nữa, qua quyết định kiểm toán lại Vinalines do Đinh La Thăng ký, và tuyên bố của Nguyễn Bá Thanh, trưởng ban nội chính trung ương “các lời khai của Dương Chí Dũng đang được tiếp tục điều tra”, vào tháng 6/2014 vừa qua

Có lẽ ông Nguyễn Bá Thanh, người được coi là cánh tay chống tham nhũng của Tổng bí thư, với tính cách thắng thẳn cùng khát vọng cải cách của mình, đã bất mãn với nhóm thân Trung Quốc đang bị nhân dân coi là “nhu nhược”, nên chuyển qua ủng hộ nhóm Thủ tướng bằng cách mở rộng tiếp điều tra vụ Dương Chí Dũng bỏ trốn. 

Dương Chí Dũng khai rằng có đưa 500.000 USD cho tướng Ngọ, nhưng nhân dân nghĩ rằng nếu có việc tướng Ngọ thả Dũng, thì không thể vì 500,000 USD đó. Với một Thượng tướng an ninh cao cấp đang ở thế ngôi sao sáng, không thể và không dại gì vì “tham vặt 10 tỷ đồng” mà hủy tiền đồ chính trị đang lên của mình.

Và phải chăng nhóm Thủ tướng lại có cú phản đòn thứ hai và thứ ba vào lúc này khi mà liên tiếp trong hai ngày 21 và 22 tháng 7/2014, Tổng thanh tra chính phủ và Tổng cục cảnh sát tuyên bố vào cuộc điều tra hai vụ đại án. Một vụ lem nhem giải tỏa đền bù ở quận Đống Đa từ năm 2004 (thời kỳ ông Nguyễn Phú Trọng còn là Bí thư thành ủy Hà Nội) và vụ vỡ ống nước 9 lần của Vinaconex, một doanh nghiệp lớn có vốn nhà nước và có nhiều “quan hệ sâu xa” với 2 ủy viên Bộ Chính Trị “được coi là trong nhóm Tổng bí thư”. Đó là Tô Huy Rứa, Trưởng ban tổ chức trung ương, và Phạm Quang Nghị, Bí thư thành ủy Hà Nội đương nhiệm.

Rất đáng chú ý trong cách nhóm chính phủ vào cuộc hai vụ án này, một là phát biểu của ông Nguyễn Hồng Điệp (Trưởng ban tiếp dân Trung ương) “trong hai cuộc thanh tra thì một lần Bộ Xây Dựng phải thu hồi quyết định thanh tra mà không nói rõ lý do.

 Đặc biệt, hồ sơ vụ việc cho biết, tại lần thanh tra lần thứ nhất từ tháng 7/2007 đến tháng 7/2008, có 4 trong 9 nội dung Thanh tra Bộ Xây dựng không thể tiến hành để đưa ra kết luận vì “thái độ chống đối, thiếu hợp tác của công ty Bảo Long” và “thái độ bao che dung túng của chính quyền các cấp tại địa phương”, và “trong năm nay dù đầu năm không có kế hoạch làm nhưng phải kiên quyết làm ngay”(4).

Cả hai vụ đều có chung một sự lạ nữa, trái với thông lệ, là các ‘đại án ngàn tỷ” thì an ninh có thẩm quyền điều tra, nhưng lần này theo tuyên bố của Thanh tra chính phủ thì là Tổng cục cảnh sát đang điều tra. Phải chăng các vụ này có dính đến các ủy viên Bộ Chính Trị trong nhóm đối lập với Thủ tướng, nên lực lượng an ninh, vốn lâu nay được coi như “thanh kiếm của đảng”, đã bị Thủ tướng cho đứng ngoài cuộc, thay bằng lực lượng cảnh sát?

Tương lai của đảng ?
Trong bối cảnh Việt Nam đang cần cải cách thể chế để vào TPP, một lối thoát quan trọng cho sự trì trệ của nền kinh tế hiện nay, và cần một thỏa thuận liên minh với Mỹ và khối đồng minh lâu đời của Mỹ ở Đông Á nhằm đương cự được với bành trướng Trung Quốc, thì có thể “trận nội chiến” của hai nhóm trong đảng sẽ có kết quả vào hội nghị Trung Ương 10 cuối năm nay. 

Các đòn thế của hai bên –một đằng là “bỏ phiếu tín nhiệm nếu không đạt là cho nghỉ ngay” mà Tổng bí thư đã tuyên bố, và một đằng là sự vào cuộc ngoài kế hoạch của nhóm Thủ tướng để tiếp tục làm sáng tỏ 3 vụ án nói trên—phải chăng là những đòn tiến công đưa ra trước khi có Hội Nghị TW 10 là để làm mất uy tín nhau ?

Trong các diễn biến như thế, có một luồng dư luận nhận định rằng có thể Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đang lên kế hoạch chuẩn bị nắm chức Tổng bí thư đảng tại đại hội 12 để thực hiện tuyên bố đầu năm “Đảng nắm chắc ngọn cờ dân chủ”. 

Chỉ có nắm được đảng, với sự hỗ trợ của Mỹ và phương Tây, mới có thể “nắm chắc ngọn cờ dân chủ” và mới có đủ sức đương cự lại bành trướng Bắc Kinh.

Và phải chăng, để vô hiệu hóa kế hoạch này, nên phiá Tổng bí thư đã đi một bước trước. Ngày 23/07/2014 vừa qua, Bí thư thành ủy Hà Nội, người ‘đang được coi là’ ‘tổng bí thư dự bị” vào đại hội 12 năm 2016, đã đi Mỹ và “vận động Mỹ ủng hộ Việt Nam”. Trong khi đó thì Ngoại trưởng Phạm Bình Minh vẫn chưa được đi Mỹ dù đã được Ngoại Trưởng John Kerry của Mỹ mời từ lâu.

Theo truyền thông đưa tin thì ông Phạm Quang Nghị đi theo lời mời của Bộ Ngoại Giao Mỹ. Dường như chuyến đi này không có gì quan trọng cho quan hệ Việt-Mỹ theo các tin tức loan ra. Như vậy phải chăng nhóm thân Trung Quốc trong đảng vận động cho chuyến đi này để thực hiện kế hoạch “một ná hai chim”.

 Một là chứng tỏ cho dư luận thấy nhóm Tổng bí thư không vì e ngại đánh mất quan hệ với Trung Quốc mà bỏ qua việc vận động Mỹ ủng hộ Việt Nam giữ chủ quyền, hai là “vua kế vị” Phạm Quang Nghị muốn giành bớt ảnh hưởng của “người toan tính tiếm quyền” Nguyễn Tấn Dũng trong thời gian từ đây đến khi đại hội đảng 12 diễn ra ?

Phía Thủ Tướng chẳng thể ngồi yên. Ngoại trưởng Phạm Bình Minh đang đi một vòng các nước Âu châu, và chắc sẽ qua Mỹ trước HNTW 10, khi mà Thủ tướng Dũng đã nắm chắc được đa số phiếu trong Bộ CT.

Trong một diễn biến khác, cũng xảy ra một việc thú vị. Trên tờ Người Đô Thị, tờ báo, theo dư luận, đang được coi là “cơ quan phát ngôn của một xu hướng cải cách chính trị bên trong thành ủy TpHCM”, đã cho đăng một trang truyện tranh sáng tác ngắn, trong đó có lời phát ngôn muốn ‘bỏ búa liềm” và dùng “công cụ” của một nước Viễn Đông xa xôi mang tính trung lập (5). Phải chăng đó là tín hiệu báo ra bên ngoài về một chiến lược cải cách chính trị của Việt Nam trong tương lai khi nhóm thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thắng thế. Mô thức sẽ là “bỏ búa liềm” trong ngắn hạn, trung hạn là mô hình Nga năm 1991 và dài hạn là mô hình một nhà nước dân chủ trong thế trung lập (và chuyên lo kiếm tiền để giàu mạnh) như thông điệp lồng trong nội dung truyện tranh? 

Một câu truyện bằng tranh thật “táo bạo” trên một tờ báo “lề phải” và trong khuôn khổ của chế độ độc đảng Mác xít-Lêninit hiện nay. Nó có báo hiệu tương lai “bỏ búa liềm”, tự lột xác, của đảng CS hiện nay hay không? Nó có báo hiệu một mùa xuân dân chủ phi Mác xít tại Việt Nam hay không? Những câu hỏi đó chỉ có lời giải đáp khi cuộc “nội chiến” trong đảng chấm dứt, và cần được theo dõi trong những tháng năm tới.

Người ta nói cái đập cánh của một con bướm cũng có khả năng gây ra cơn bão. Chính trường Việt Nam đang có hàng loạt dấu hiệu và hoạt động sóng gió như vậy, e rằng cơn bão tư tưởng, chính trị sẽ còn lớn hơn bão Thần Sấm vừa qua, chỉ là không biết nó thổi về hướng nào, Mỹ hay Trung Quốc?

Nguyễn An Dân

(Ngày 23/07/2014)

********


Cuộc Cách Mạng của Sợ Hãi ở Việt Nam

No comments:

Post a Comment