Chính
quyền Việt Nam đang đối mặt với những nguy cơ nào?
Tàu TQ lại đâm chìm tàu cá VN
Bản điều trần của tiến
sĩ, nhà báo độc lập Phạm Chí Dũng, Việt Nam
Tại Tiểu Ban Nhân Quyền
thuộc Ủy Ban Thường Trực về Đối Ngoại và Phát triển Quốc Tế của Quốc
hội Canada, thông qua Liên Hội Người Việt Canada, vào ngày 29.5.2014
(bài đăng báo có điều chỉnh
và bổ sung so với bản điều trần)
Chưa bao giờ kể từ khi kết
thúc cuộc chiến tranh Nam – Bắc vào năm 1975, những người lãnh đạo ở Việt Nam
lại phải đối mặt với 5 nguy cơ quá lớn như hiện nay:
1. Nguy
cơ khủng hoảng kinh tế:
Đây là nguy cơ lớn nhất và giải
thích vì sao giới lãnh đạo Hà Nội lại quá cần đến Hiệp định kinh tế xuyên Thái
Bình Dương (TPP).
Cuộc suy thoái kinh tế ở
Việt Nam kéo dài từ năm 2008 đến nay đã làm kiệt quệ gần như toàn bộ nền kinh
tế. GDP giảm đến 50%, tương ứng với các ngành kinh tế chủ chốt như công nghiệp,
nông nghiệp, thương mại và du lịch đều suy giảm trầm trọng.
Khoảng 50% số doanh
nghiệp rơi vào tình trạng phá sản, giải thể, hoặc tạm ngưng hoạt động. Tỷ lệ
thất nghiệp thực tế lên đến khoảng 20%. Nợ xấu trong hệ thống ngân hàng lên đến
ít nhất 500.000 tỷ đồng (khoảng 25 tỷ USD), khoảng 75% nợ xấu tập trung vào thị
trường bất động sản. Còn nợ công quốc gia lên đến ít nhất 95% GDP.
Tuy nhiên, đáng chú ý là
gần như toàn bộ hậu quả cho đến nay vẫn chưa hề được giải quyết. Nhiều chuyên
gia phản biện cho rằng đáy kinh tế vẫn chưa lộ ra, và nền kinh tế vẫn còn tiếp
tục lao dốc trong những năm tới. Trong những năm sắp tới, Nhà nước Việt Nam
đang phải đối mặt với nguy cơ vỡ nợ như Argentine vào năm 2001.
2014 có thể là năm đầu
tiên của một chu kỳ khủng hoảng ngân hàng, bắt đầu từ sự đổ vỡ của vài ngân
hàng hạng trung và có thể dẫn đến sụp đổ dây chuyền trong ít nhất 50% số ngân
hàng hiện hữu, dẫn đến khủng hoảng gần như toàn bộ nền kinh tế. Chu kỳ khủng
hoảng kinh tế có thể lên đến cao điểm vào năm 2016-2017 và trở thành sóng nhấn
cuối cùng đối với con thuyền chính trị. Đây là diễn biến quan yếu nhất.
2. Bất
ổn xã hội và phản kháng dân chúng:
Bất ổn xã hội và phản
kháng dân chúng đã gia tăng đột ngột từ năm 2011 cho tới nay. Trong những năm
tới, phản kháng xã hội sẽ tăng cao về số lượng, quy mô, tạo nên áp lực lớn đối
với chính thể và nằm trong giai đoạn đầu của một cuộc khủng hoảng xã hội trong
những năm sau. Xu hướng này sẽ mau chóng biến thành xu thế ở rất nhiều địa
phương, liên quan đến đất đai, môi trường, đình công, quan hệ giữa người dân và
nhân viên công lực, nạn tham nhũng…
Quy luật khủng hoảng
kinh tế dẫn đến khủng hoảng xã hội đang ứng nghiệm ở Việt Nam.
Nếu hệ thống
ngân hàng bị vỡ một phần, tình trạng đó sẽ lập tức ảnh hưởng rất xấu đến hoạt
động của số doanh nghiệp còn lại và đẩy cao tình trạng thất nghiệp. Lạm phát
cũng được thổi bùng và làm cho đồng tiền mất giá, có thể tái hiện một phần tình
trạng lạm phát đến 600% những năm 1985-1986.
Tỷ lệ thất nghiệp có thể tăng vọt
đến 30-40% và đẩy phần lớn người lao động ra đường. Tình cảnh đó rất có thể làm
cho niềm tin chính thể của người dân hoàn toàn tan vỡ và tạo nên làn sóng phản
kháng rộng khắp, đặc biệt là trong nông dân và công nhân.
Khả năng cạn kiệt ngân
sách và kinh phí an sinh xã hội cũng khiến cho nguy cơ vỡ quỹ lương hưu và quỹ
bảo hiểm xã hội trở nên rất hiện hữu. Nếu khả năng này xảy ra, phần lớn cán bộ
đảng viên về hưu, vốn đã tích tụ bất mãn và bức xúc đối với đảng và chính quyền,
sẽ có thể trả thẻ đảng, tạo nên một phong trào thoái đảng trên diện rộng và gia
nhập vào làn sóng biểu tình của người dân.
3. Phong
trào dân chủ – nhân quyền và sức ép quốc tế:
Từ năm 1975 đến nay,
chưa bao giờ đảng cầm quyền phải đối đầu với một là sóng phản kháng của giới
bất đồng chính kiến và dân chủ – nhân quyền trong nước như hiện nay. Từ đầu năm
2013, xã hội dân sự đã chính thức hình thành ở Việt Nam, cho dù không được
chính quyền thừa nhận. Vào tháng 4/2014, lần đầu tiên từ năm 1975, Nhà nước
Việt Nam phải thỏa hiệp với Hoa Kỳ để thả đến 5 tù nhân chính trị.
Cũng chưa bao giờ giới
lãnh đạo Việt Nam lại ở thế yếu ớt như hiện thời trong mối tương quan với Hoa
Kỳ và phương Tây. Cuộc đi dây của Việt Nam giữa hai quốc gia Trung Quốc và Hoa
Kỳ được xem là rất phiêu lưu và không mang lại hiệu quả.
4. Hiểm
họa Trung Quốc:
Việt Nam càng bị phụ
thuộc và Trung Quốc và càng bị Trung Quốc lấn ép ở Biển Đông và trong vấn đề
nhập khẩu. Trong tương lai gần, nguy cơ từ Trung Quốc là rất tiềm tàng và có thể
xảy ra những đột biến, không chỉ ở Biển Đông mà có thể là những can thiệp vào
nội trị ngay tại Hà Nội và cả quân sự ở biên giới phía Bắc Việt Nam. Không loại
trừ vào giai đoạn 2016-2017, khi Việt Nam có thể rơi vào khủng hoảng kinh tế,
khủng hoảng xã hội và nội bộ phân hóa sâu sắc, Trung Quốc có thể tung ra một
chiến dịch tấn công quân sự tổng lực vào Việt Nam.
Trước sức ép và hiểm họa
liên tục từ Trung Quốc, gần đây đã có vài dấu hiệu cho thấy ngay cả phe bảo thủ
nhất trong đảng cũng đang có xu hướng dần chuyển sang quan hệ thỏa hiệp hơn với
các đòi hỏi về dân chủ và nhân quyền của Hoa Kỳ và phương Tây, nhằm đổi lại
quan hệ TPP, đầu tư, thương mại đa phương và hợp tác quân sự Biển Đông.
5. Cuộc
tranh đoạt không khoan nhượng giữa các nhóm lợi ích:
Khác với sự thống nhất
tạm thời trong quá khứ, hiện thời và tương lai gần của đảng cầm quyền không cho
thấy những dấu hiệu khả quan về tính đồng thuận. Ngược lại, mối mâu thuẫn và
xung khắc nội bộ ngày càng lớn, chủ yếu xuất phát từ quyền lợi của các nhóm lợi
ích kinh tế và nhóm thân hữu chính trị.
Đây là cuộc tranh đoạt ở giai đoạn cuối
cùng, không khoan nhượng và cũng là một mối nguy rất lớn mà có thể làm tan vỡ
đảng cầm quyền ở Việt Nam, ngay cả trong điều kiện nền kinh tế chưa thật sự rơi
vào khủng hoảng.
* Kết luận:
Một cách đương nhiên,
việc xem xét và lượng giá 5 nguy cơ nêu trên có thể bổ túc cho giới chính khách
và các nhà đầu tư Canada một cái nhìn đầy đủ hơn về tình hình thực tại và tương
lai trung hạn ở Việt Nam, từ đó đưa ra những chính sách đối xử Canada – Việt
Nam không nhất thiết phải quá mềm dẻo về thương mại song phương, đầu tư và viện
trợ nhân đạo.
Tôi cho rằng chính sách
và áp lực về thực thi dân chủ, nhân quyền của phương Tây, chính sách xoay trục
về châu Á- Thái Bình Dương của Hoa Kỳ vẫn còn nguyên giá trị và sẽ phát huy tác
dụng lớn trong những năm tới, đặc biệt vào giai đoạn 2016-2017 là thời gian mà
nền kinh tế Việt Nam nhiều khả năng đạt đỉnh khủng hoảng kinh tế, dẫn đến những
biến loạn xã hội khôn lường và có thể tiếp biến một cuộc khủng hoảng chính trị
ghê gớm.
Xin cám ơn quý vị đã
lắng nghe.
No comments:
Post a Comment