Nước cờ hiểm của TQ với giàn khoan
Nước cờ hiểm của TQ với
giàn khoan
Nguyễn Lễ
BBCVietnamese.com
Cập nhật: 09:18 GMT - thứ năm, 29
tháng 5, 2014
Trung̣ Quốc định ngày
rút giàn khoan là ngày 15/8
Các đợt xuống đường của người dân Việt Nam
có thổi bay cái giàn khoan của Trung Quốc khỏi Biển Đông?
Câu trả lời, nhiều khả
năng, là ‘Không’.
Các
bài liên quan
Chủ đề liên quan
Ít nhất những diễn biến
trên thực địa cùng với những tuyên bố cứng rắn cho đến giờ cho thấy Trung Quốc
quyết không lùi một bước.
Tôi không rành về khai thác
dầu khí nhưng theo lý mà suy thì chừng nào xong việc mới rút giàn khoan chứ làm
sao biết được sẽ rút ngày nào?
Nhưng nếu Bắc Kinh không
công bố trước thời hạn rút giàn khoan thì bất cứ lúc nào họ rút đi cũng sẽ bị
cho là chịu thua sức ép của Việt Nam.
Đưa giàn khoan ra Biển
Đông, Bắc Kinh muốn quyết tâm khẳng định với thế giới rằng vùng biển xung quanh
đó thuộc chủ quyền của họ.
Nhưng tại sao họ lại ra tay
vào lúc này? Giàn khoan Hải Dương 981 là cách mà họ thách thức cam kết ‘xoay
trục’ mà Tổng thống Mỹ Barack Obama vừa khẳng định với các đồng minh.
Obama vừa mới lên tiếng Senkaku
nằm trong phạm vi hiệp ước an ninh với Nhật và Manila cũng vừa ký với Mỹ Hiệp
ước tăng cường liên minh quân sự. Kiếm chuyện với Tokyo hay Manila khi Obama
vừa rời đi thì quá 'bựa'.
Để thách thức Mỹ nhưng vẫn
tránh đối đầu trực diện, Bắc Kinh chọn mục tiêu mềm hơn là Hà Nội.
Nước cờ chắc ăn
Với lại khi có hành động mà
Bắc Kinh biết rằng sẽ bị thách thức dữ dội thì họ phải chọn nước cờ chắc ăn
nhất.
Họ không chọn vùng biển xung quanh các đảo mà
họ đang nắm giữ ở Trường Sa hoặc một vị trí nào khác trong Biển Đông mà họ biết
sẽ rủi ro hơn rất nhiều.
Quần đảo Hoàng Sa chỉ có tranh chấp với Việt
Nam, trong khi Trung Quốc còn không thừa nhận là có tranh chấp và lâu nay vẫn
cự tuyệt mọi đề xuất đàm phán của Hà Nội.
Về mặt thực tế, ‘Tây Sa’ đã nằm hoàn toàn
trong tay Trung Quốc và cách nay không lâu họ còn gióng trống mở cờ thành lập
thành phố ‘Tam Sa’ đóng trên quần đảo này.
Tổng thống Mỹ Obama vừa cam kết với
các đồng minh châu Á về chính sách 'xoay trục'
Về mặt pháp lý, họ có ‘bửu bối’ là công hàm
Phạm Văn Đồng mà nếu Hà Nội có cãi lý thì họ sẽ dùng để đập lại.
Họ kiểm soát, họ không thừa nhận có tranh
chấp, họ có bằng chứng Hà Nội ‘công nhận chủ quyền’, rõ ràng Bắc Kinh rất tự
tin với ‘chủ quyền Tây Sa’ nên họ mới đưa giàn khoan ra đây.
Nếu Việt Nam có nói là giàn khoan nằm trong
vùng đặc quyền kinh tế của mình thì Trung Quốc sẽ cãi rằng giàn khoan này nằm
cách ‘Tây Sa, lãnh thổ của họ’ chỉ 17 hải lý trong khi cách bờ biển Việt Nam
đến 150 hải lý.
Trên thực tế đó là kịch bản mà báo chí và các
quan chức Trung Quốc đã nói trong những ngày qua.
Một khi có bước đi liều lĩnh như thế chắc
chắn Bắc Kinh đã tính toán hết mọi rủi ro mới dám thực hiện.
Nhìn vào động tĩnh của Trung Quốc trong những
ngày qua thì sẽ thấy họ theo dõi chặt chẽ phản ứng của Việt Nam, của khối Asean
và của Mỹ.
Ngay cả khi phản ứng chính thức của Mỹ chỉ
dừng ở mức ‘quan ngại’ và chỉ trích Trung Quốc ‘gia tăng căng thẳng’ thì Chủ
tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phủ đầu với tuyên bố ở Thượng Hải rằng ‘các thế
lực bên ngoài không được can thiệp’ và ‘chống lập liên minh quân sự nhằm vào
bên thứ ba’.
Còn với Asean, mặc dù còn không nêu tên Trung
Quốc mà chỉ bày tỏ ‘quan ngại’ nhưng Trung Quốc đã rất nhanh chóng lấy quan hệ
chung để nhắc nhở Asean không được dính vào tranh chấp riêng và cảnh báo Hà Nội
về việc ‘lôi kéo’ Asean.
Làm chủ tình hình
Phản ứng mạnh mẽ của Việt
Nam chắc chắn cũng đã nằm trong dự liệu của Trung Quốc.
Các lãnh đạo Asean không muốn mất lòng
Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông
Mỹ can thiệp, Asean dính líu và Việt Nam ngả
về phía Mỹ là ba nỗi sợ của Bắc Kinh khi đưa giàn khoan HD-981 ra Biển Đông.
Về phía Mỹ thì Bắc Kinh biết rõ vào lúc này
Washington không thể làm được gì nhiều để giúp Hà Nội ngoài hỗ trợ tinh thần.
Về phía Asean thì Bắc Kinh biết rằng với tư
cách là đối tác thương mại lớn nhất của khối, các nước Asean sẽ hết sức thận
trọng để tránh làm tổn thương quan hệ với Trung Quốc.
Về phía Việt Nam, với quan hệ khắng khít giữa
hai Đảng Cộng sản trong những năm qua, Bắc Kinh chắc hẳn nắm rõ suy nghĩ của Hà
Nội.
Điều Bắc Kinh sợ nhất là Hà Nội ngả về phía
Washington để họ thêm một mối họa ở phía Nam, nhưng một khi họ đã đưa giàn
khoan ra thì có nghĩa họ tin rằng Hà Nội dù có bị o ép thế nào đi nữa thì cũng
không tìm kiếm liên minh với Mỹ
Chỉ có điều với hành động này thì họ đã hủy
hoại quan hệ với Việt Nam. Việt Nam sẽ không còn là ‘láng giềng thân thiện’ với
Trung Quốc được nữa. Tuy nhiên, vì mục đích lớn ở Biển Đông, Bắc Kinh sẵn sàng
hy sinh.
Trong cái mục đích lớn đó, đảo thì họ
đã nắm được một phần nhưng đường lưỡi bò thì đây mới là bước đi quan trọng đầu
tiên để hiện thực hóa.
Nếu như Trung Quốc lùi trước sức ép của Việt
Nam thì trước mắt người dân trong nước chính quyền là hèn nhát không đủ sức bảo
vệ chủ quyền, trước dư luận quốc tế lập luận chủ quyền của họ không vững và
nhất là đường lưỡi bò mới tiến được một bước đã phải lùi thì sau này sẽ vô vàn
khó khăn.
Biển Đông là cánh cửa để Trung Quốc bành
trướng ra ngoài và là chìa khóa để làm bá chủ ở Đông Á nhất là khi họ đã bị
chặn bởi các nước lớn khác ở các hướng bắc, đông và tây nam.
Trung Quốc đang muốn biến đường lưỡi bò
trên bản đồ thành sự thật
Chậm mà chắc
Năm 1947, đường lưỡi bò lần
đầu tiên xuất hiện trên bản đồ Trung Hoa.
Lúc đó, người Trung Quốc còn chưa có gì
trên Biển Đông. Gần 70 năm sau, họ đã có ‘thành phố Tam Sa’ – tức là đã có chỗ
đứng vững chắc để từ đó vươn ra Biển Đông.
Ai dám chắc sau 70 năm hoặc 100 năm nữa toàn
bộ Biển Đông không trở thành ao nhà của Trung Quốc?
Từ chỗ không có gì đến có được như thế phải
thấy tầm nhìn và sự khôn ngoan của Trung Quốc trên Biển Đông: họ xác định đó là
công việc lâu dài, tiến dần từng bước một, tranh thủ thời cơ, sẵn sàng dùng vũ
lực, sức mạnh đến đâu hiện thực chủ quyền đến đó.
Mặc dù có yêu sách đường chín đoạn từ rất lâu
nhưng phải đến tận năm 2009 họ mới chính thức trình ra quốc tế. Chứng tỏ Bắc
Kinh giỏi giấu mình chờ thời cơ đến mức nào.
Tuy nhiên điều này cũng cho thấy sự không
trong sáng trong đòi hỏi chủ quyền của họ. Nếu có chủ quyền thật sự thì cần gì
đợi thời cơ mới đưa ra?
Và cái cách mà họ vẽ đường chín đoạn trong
tất cả các bản đồ của họ hiện nay, mặc dù chỉ là chủ quyền trên giấy, là nhằm
in sâu vào tâm trí mọi người để rồi đến lúc ai cũng mặc nhiên thừa nhận ‘chủ
quyền không thể chối cãi’ của Trung Quốc.
Họ cũng rất biết lợi dụng tình hình khi tranh
thủ tối đa những lúc Việt Nam rối ren hay gặp tình hình quốc tế bất lợi để ra tay
chiếm đảo.
Chính phủ Bắc Việt đã quá tin tưởng
vào Trung Quốc?
Với một đất nước đã quen với ván cờ quyền lực
và đấu tranh chính trị trong hàng ngàn năm thì Việt Nam không phải là đối thủ
của họ trong cuộc đấu trí trên Biển Đông.
Họ có tầm nhìn cả trăm năm, có chiến lược
thực hiện rõ ràng và nhất là luôn ở thế tấn công trong khi Việt Nam nằm ở thế
bị động chống đỡ các bước đi của họ.
Trước phía nhiều mưu chước như Trung Quốc,
Việt Nam chẳng khác nào một đứa trẻ ngây ngô liên tục bị gài bẫy.
Cái bẫy lớn nhất chính là công hàm năm 1958
công nhận Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc mà trong Tuyên bố này có khẳng
định chủ quyền đối với ‘Tây Sa’ và ‘Nam Sa’.
Bắc Việt lúc đó chỉ nghĩ đến cái lợi trước
mắt là sự giúp đỡ của Trung Quốc chứ không lường được cái hại sau này trong khi
Trung Quốc mưu tính chuyện lâu dài về sau.
Công luận quốc tế không cần biết ông Đồng suy
nghĩ thế nào hay bối cảnh ra sao khi ky cái công hàm đó. Chỉ biết giấy trắng
mực đen rành rành Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc.
Việt Nam đang chứng kiến các cuộc biểu
tình chống Trung Quốc lớn chưa từng thấy
Đành rằng ông Đồng không thể đem cho cái mà
Chính phủ của ông không có, nhưng ông có thể thừa nhận quyền sở hữu của người
khác đối với tài sản mà ông không có đó.
Và khi đã thừa nhận của người khác thì bây
giờ sao lại nói ngược là của mình được?
Rõ ràng Việt Nam tin vào tình đồng chí còn
Trung Quốc đã lợi dụng tình đồng chí đó.
Quan hệ quốc tế luôn dựa trên nền tảng lợi
ích quốc gia - không có chỗ cho ‘tinh thần quốc tế vô sản trong sáng’. Bắc Kinh
đã không đổ xương máu cho Hà Nội nếu không có lợi ích của mình trong đó.
Bắc Việt đã quá ngây thơ khi tin tưởng người
đồng chí phương Bắc hơn đồng bào của mình ở miền Nam. Họ đã để y thức hệ chi
phối chính sách ngoại giao của mình.
Chính vì ý thức hệ mà khi Việt Nam hụt hẫng
sau khi Liên Xô sụp đổ đã bất chấp những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ
lại tìm đến Trung Quốc làm chỗ dựa. Và đất nước lại bị đặt trước miệng cọp.
Cũng vì ý thức hệ mà Tổng bí thư Nguyễn Phú
Trọng khi sang thăm Trung Quốc đã chấp nhận lời khuyên lấy ‘đại cục’ làm trọng,
tức là đặt lên trên tranh chấp.
Khi đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh có
nghĩ đến ‘đại cục’ không?
Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng Việt
Nam sẽ không thoát khỏi 'đại cục' với họ?
Rõ ràng ‘đại cục’ đó không phải để ràng buộc Bắc
Kinh mà là để Bắc Kinh ràng buộc Hà Nội.
Thậm chí khi Bắc Kinh đã phá vỡ cam kết của
lãnh đạo hai Đảng thì Thường Vạn Toàn vẫn tự tin nhắc nhở Phùng Quang Thanh
về ‘đại cục’.
Và cho đến giờ cũng chính y thức hệ đã khiến
Việt Nam mắc kẹt trong ‘đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không liên minh
với ai’
Mạnh như Nhật mà còn cần hiệp ước an ninh với
Mỹ, có vũ khí hạt nhân như Anh, Pháp vẫn cần Mỹ đồng minh trong khối Nato.
Trong khi đó, Việt Nam hiện nay vừa nhỏ yếu
vừa bị đe dọa nghiêm trọng thì cứ nói là ‘độc lập, tự chủ’ mà thực ra chỉ
thiệt cho mình mà thôi.
Thử cho Mỹ vào Cam Ranh xem? Bắc Kinh không
sợ mới lạ.
Mỹ rất muốn nhưng Việt Nam ‘độc lập, tự chủ’
không làm được.
Chính vì thế Việt Nam mất đi một lá bài lợi
hại trong cuộc đối đầu vốn dĩ không cân sức.
No comments:
Post a Comment