Saturday, 31 May 2014

Nước cờ hiểm của TQ với giàn khoan


Nước cờ hiểm của TQ với giàn khoan

Đng CSVN gia ngã ba đường lch s
https://www.youtube.com/watch?v=wZ0JJXaQB4o

Nguyễn Lễ

BBCVietnamese.com

Cập nhật: 09:18 GMT - thứ năm, 29 tháng 5, 2014

·         Facebook

·         Twitter

·         Google+

·         chia sẻ

·         Gửi cho bạn bè

·         In trang này

Trung̣ Quốc định ngày rút giàn khoan là ngày 15/8

Các đợt xuống đường của người dân Việt Nam có thổi bay cái giàn khoan của Trung Quốc khỏi Biển Đông?

Câu trả lời, nhiều khả năng, là ‘Không’.

Các bài liên quan

·         'Trung Quốc bên bờ một sai lầm lớn?'

·         Dàn khoan TQ là tai họa hay phúc lành?

·         Tướng Mỹ cảnh báo về xung đột

Chủ đề liên quan

·         Quan hệ Việt Trung

·         Biển Đông,

·         Tranh chấp lãnh thổ

·         Ngoại giao Việt Nam

Ít nhất những diễn biến trên thực địa cùng với những tuyên bố cứng rắn cho đến giờ cho thấy Trung Quốc quyết không lùi một bước.

Tôi không rành về khai thác dầu khí nhưng theo l‎ý mà suy thì chừng nào xong việc mới rút giàn khoan chứ làm sao biết được sẽ rút ngày nào?

Nhưng nếu Bắc Kinh không công bố trước thời hạn rút giàn khoan thì bất cứ lúc nào họ rút đi cũng sẽ bị cho là chịu thua sức ép của Việt Nam.

Đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh muốn quyết tâm khẳng định với thế giới rằng vùng biển xung quanh đó thuộc chủ quyền của họ.

Nhưng tại sao họ lại ra tay vào lúc này? Giàn khoan Hải Dương 981 là cách mà họ thách thức cam kết ‘xoay trục’ mà Tổng thống Mỹ Barack Obama vừa khẳng định với các đồng minh.

Obama vừa mới lên tiếng Senkaku nằm trong phạm vi hiệp ước an ninh với Nhật và Manila cũng vừa k‎ý với Mỹ Hiệp ước tăng cường liên minh quân sự. Kiếm chuyện với Tokyo hay Manila khi Obama vừa rời đi thì quá 'bựa'.

Để thách thức Mỹ nhưng vẫn tránh đối đầu trực diện, Bắc Kinh chọn mục tiêu mềm hơn là Hà Nội.

Nước cờ chắc ăn

Với lại khi có hành động mà Bắc Kinh biết rằng sẽ bị thách thức dữ dội thì họ phải chọn nước cờ chắc ăn nhất.

Họ không chọn vùng biển xung quanh các đảo mà họ đang nắm giữ ở Trường Sa hoặc một vị trí nào khác trong Biển Đông mà họ biết sẽ rủi ro hơn rất nhiều.

Quần đảo Hoàng Sa chỉ có tranh chấp với Việt Nam, trong khi Trung Quốc còn không thừa nhận là có tranh chấp và lâu nay vẫn cự tuyệt mọi đề xuất đàm phán của Hà Nội.

Về mặt thực tế, ‘Tây Sa’ đã nằm hoàn toàn trong tay Trung Quốc và cách nay không lâu họ còn gióng trống mở cờ thành lập thành phố ‘Tam Sa’ đóng trên quần đảo này.

Tổng thống Mỹ Obama vừa cam kết với các đồng minh châu Á về chính sách 'xoay trục'

Về mặt pháp lý, họ có ‘bửu bối’ là công hàm Phạm Văn Đồng mà nếu Hà Nội có cãi lý thì họ sẽ dùng để đập lại.

Họ kiểm soát, họ không thừa nhận có tranh chấp, họ có bằng chứng Hà Nội ‘công nhận chủ quyền’, rõ ràng Bắc Kinh rất tự tin với ‘chủ quyền Tây Sa’ nên họ mới đưa giàn khoan ra đây.

Nếu Việt Nam có nói là giàn khoan nằm trong vùng đặc quyền kinh tế của mình thì Trung Quốc sẽ cãi rằng giàn khoan này nằm cách ‘Tây Sa, lãnh thổ của họ’ chỉ 17 hải lý trong khi cách bờ biển Việt Nam đến 150 hải lý.

Trên thực tế đó là kịch bản mà báo chí và các quan chức Trung Quốc đã nói trong những ngày qua.

Một khi có bước đi liều lĩnh như thế chắc chắn Bắc Kinh đã tính toán hết mọi rủi ro mới dám thực hiện.

Nhìn vào động tĩnh của Trung Quốc trong những ngày qua thì sẽ thấy họ theo dõi chặt chẽ phản ứng của Việt Nam, của khối Asean và của Mỹ.

Ngay cả khi phản ứng chính thức của Mỹ chỉ dừng ở mức ‘quan ngại’ và chỉ trích Trung Quốc ‘gia tăng căng thẳng’ thì Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình đã phủ đầu với tuyên bố ở Thượng Hải rằng ‘các thế lực bên ngoài không được can thiệp’ và ‘chống lập liên minh quân sự nhằm vào bên thứ ba’.

Còn với Asean, mặc dù còn không nêu tên Trung Quốc mà chỉ bày tỏ ‘quan ngại’ nhưng Trung Quốc đã rất nhanh chóng lấy quan hệ chung để nhắc nhở Asean không được dính vào tranh chấp riêng và cảnh báo Hà Nội về việc ‘lôi kéo’ Asean.

Làm chủ tình hình

Phản ứng mạnh mẽ của Việt Nam chắc chắn cũng đã nằm trong dự liệu của Trung Quốc.

Các lãnh đạo Asean không muốn mất lòng Trung Quốc trên vấn đề Biển Đông

Mỹ can thiệp, Asean dính líu và Việt Nam ngả về phía Mỹ là ba nỗi sợ của Bắc Kinh khi đưa giàn khoan HD-981 ra Biển Đông.

Về phía Mỹ thì Bắc Kinh biết rõ vào lúc này Washington không thể làm được gì nhiều để giúp Hà Nội ngoài hỗ trợ tinh thần.

Về phía Asean thì Bắc Kinh biết rằng với tư cách là đối tác thương mại lớn nhất của khối, các nước Asean sẽ hết sức thận trọng để tránh làm tổn thương quan hệ với Trung Quốc.

Về phía Việt Nam, với quan hệ khắng khít giữa hai Đảng Cộng sản trong những năm qua, Bắc Kinh chắc hẳn nắm rõ suy nghĩ của Hà Nội.

Điều Bắc Kinh sợ nhất là Hà Nội ngả về phía Washington để họ thêm một mối họa ở phía Nam, nhưng một khi họ đã đưa giàn khoan ra thì có nghĩa họ tin rằng Hà Nội dù có bị o ép thế nào đi nữa thì cũng không tìm kiếm liên minh với Mỹ

Chỉ có điều với hành động này thì họ đã hủy hoại quan hệ với Việt Nam. Việt Nam sẽ không còn là ‘láng giềng thân thiện’ với Trung Quốc được nữa. Tuy nhiên, vì mục đích lớn ở Biển Đông, Bắc Kinh sẵn sàng hy sinh.

Trong cái mục đích lớn đó, đảo thì họ đã nắm được một phần nhưng đường lưỡi bò thì đây mới là bước đi quan trọng đầu tiên để hiện thực hóa.

Nếu như Trung Quốc lùi trước sức ép của Việt Nam thì trước mắt người dân trong nước chính quyền là hèn nhát không đủ sức bảo vệ chủ quyền, trước dư luận quốc tế lập luận chủ quyền của họ không vững và nhất là đường lưỡi bò mới tiến được một bước đã phải lùi thì sau này sẽ vô vàn khó khăn.

Biển Đông là cánh cửa để Trung Quốc bành trướng ra ngoài và là chìa khóa để làm bá chủ ở Đông Á nhất là khi họ đã bị chặn bởi các nước lớn khác ở các hướng bắc, đông và tây nam.

Trung Quốc đang muốn biến đường lưỡi bò trên bản đồ thành sự thật

Chậm mà chắc

Năm 1947, đường lưỡi bò lần đầu tiên xuất hiện trên bản đồ Trung Hoa.

Lúc đó, người Trung Quốc còn chưa có gì trên Biển Đông. Gần 70 năm sau, họ đã có ‘thành phố Tam Sa’ – tức là đã có chỗ đứng vững chắc để từ đó vươn ra Biển Đông.

Ai dám chắc sau 70 năm hoặc 100 năm nữa toàn bộ Biển Đông không trở thành ao nhà của Trung Quốc?

Từ chỗ không có gì đến có được như thế phải thấy tầm nhìn và sự khôn ngoan của Trung Quốc trên Biển Đông: họ xác định đó là công việc lâu dài, tiến dần từng bước một, tranh thủ thời cơ, sẵn sàng dùng vũ lực, sức mạnh đến đâu hiện thực chủ quyền đến đó.

Mặc dù có yêu sách đường chín đoạn từ rất lâu nhưng phải đến tận năm 2009 họ mới chính thức trình ra quốc tế. Chứng tỏ Bắc Kinh giỏi giấu mình chờ thời cơ đến mức nào.

Tuy nhiên điều này cũng cho thấy sự không trong sáng trong đòi hỏi chủ quyền của họ. Nếu có chủ quyền thật sự thì cần gì đợi thời cơ mới đưa ra?

Và cái cách mà họ vẽ đường chín đoạn trong tất cả các bản đồ của họ hiện nay, mặc dù chỉ là chủ quyền trên giấy, là nhằm in sâu vào tâm trí mọi người để rồi đến lúc ai cũng mặc nhiên thừa nhận ‘chủ quyền không thể chối cãi’ của Trung Quốc.

Họ cũng rất biết lợi dụng tình hình khi tranh thủ tối đa những lúc Việt Nam rối ren hay gặp tình hình quốc tế bất lợi để ra tay chiếm đảo.

Chính phủ Bắc Việt đã quá tin tưởng vào Trung Quốc?

Với một đất nước đã quen với ván cờ quyền lực và đấu tranh chính trị trong hàng ngàn năm thì Việt Nam không phải là đối thủ của họ trong cuộc đấu trí trên Biển Đông.

Họ có tầm nhìn cả trăm năm, có chiến lược thực hiện rõ ràng và nhất là luôn ở thế tấn công trong khi Việt Nam nằm ở thế bị động chống đỡ các bước đi của họ.

Trước phía nhiều mưu chước như Trung Quốc, Việt Nam chẳng khác nào một đứa trẻ ngây ngô liên tục bị gài bẫy.

Cái bẫy lớn nhất chính là công hàm năm 1958 công nhận Tuyên bố về lãnh hải của Trung Quốc mà trong Tuyên bố này có khẳng định chủ quyền đối với ‘Tây Sa’ và ‘Nam Sa’.

Bắc Việt lúc đó chỉ nghĩ đến cái lợi trước mắt là sự giúp đỡ của Trung Quốc chứ không lường được cái hại sau này trong khi Trung Quốc mưu tính chuyện lâu dài về sau.

Công luận quốc tế không cần biết ông Đồng suy nghĩ thế nào hay bối cảnh ra sao khi k‎y cái công hàm đó. Chỉ biết giấy trắng mực đen rành rành Việt Nam công nhận chủ quyền của Trung Quốc.

Việt Nam đang chứng kiến các cuộc biểu tình chống Trung Quốc lớn chưa từng thấy

Đành rằng ông Đồng không thể đem cho cái mà Chính phủ của ông không có, nhưng ông có thể thừa nhận quyền sở hữu của người khác đối với tài sản mà ông không có đó.

Và khi đã thừa nhận của người khác thì bây giờ sao lại nói ngược là của mình được?

Rõ ràng Việt Nam tin vào tình đồng chí còn Trung Quốc đã lợi dụng tình đồng chí đó.

Quan hệ quốc tế luôn dựa trên nền tảng lợi ích quốc gia - không có chỗ cho ‘tinh thần quốc tế vô sản trong sáng’. Bắc Kinh đã không đổ xương máu cho Hà Nội nếu không có lợi ích của mình trong đó.

Bắc Việt đã quá ngây thơ khi tin tưởng người đồng chí phương Bắc hơn đồng bào của mình ở miền Nam. Họ đã để ‎y thức hệ chi phối chính sách ngoại giao của mình.

Chính vì ý thức hệ mà khi Việt Nam hụt hẫng sau khi Liên Xô sụp đổ đã bất chấp những kinh nghiệm đau thương trong quá khứ lại tìm đến Trung Quốc làm chỗ dựa. Và đất nước lại bị đặt trước miệng cọp.

Cũng vì ý thức hệ mà Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng khi sang thăm Trung Quốc đã chấp nhận lời khuyên lấy ‘đại cục’ làm trọng, tức là đặt lên trên tranh chấp.

Khi đưa giàn khoan ra Biển Đông, Bắc Kinh có nghĩ đến ‘đại cục’ không?

Các lãnh đạo Trung Quốc tin rằng Việt Nam sẽ không thoát khỏi 'đại cục' với họ?

Rõ ràng ‘đại cục’ đó không phải để ràng buộc Bắc Kinh mà là để Bắc Kinh ràng buộc Hà Nội.

Thậm chí khi Bắc Kinh đã phá vỡ cam kết của lãnh đạo hai Đảng thì Thường Vạn Toàn vẫn tự tin nhắc nhở Phùng Quang Thanh về ‘đại cục’.

Và cho đến giờ cũng chính y thức hệ đã khiến Việt Nam mắc kẹt trong ‘đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, không liên minh với ai’

Mạnh như Nhật mà còn cần hiệp ước an ninh với Mỹ, có vũ khí hạt nhân như Anh, Pháp vẫn cần Mỹ đồng minh trong khối Nato.

Trong khi đó, Việt Nam hiện nay vừa nhỏ yếu vừa bị đe dọa nghiêm trọng thì cứ nói là ‘độc lập, tự chủ’ mà thực ra chỉ thiệt cho mình mà thôi.

Thử cho Mỹ vào Cam Ranh xem? Bắc Kinh không sợ mới lạ.

Mỹ rất muốn nhưng Việt Nam ‘độc lập, tự chủ’ không làm được.

Chính vì thế Việt Nam mất đi một lá bài lợi hại trong cuộc đối đầu vốn dĩ không cân sức.

 

Trí thức Việt Nam gửi thư ngỏ về tình hình khẩn cấp của đất nước

Trung Quốc hạ đặt giàn khoan Hải Dương-981 gần quần đảo Hoàng Sa
  •  
  •  
  •  

Tin liên hệ

Ðường dẫn

CỠ CHỮ 
30.05.2014
Hơn một trăm nhà trí thức Việt Nam vừa ra thư ngỏ gửi đến đồng bào trong và ngoài nước cùng các đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam, bày tỏ quan tâm về “tình thế hiểm nghèo khi chủ quyền quốc gia bị xâm phạm”, tiếp theo sau những sự cố dồn dập xảy từ đầu tháng Năm, trong cuộc tranh chấp với Trung Quốc ở Biển Đông.

Trang mạng boxit.com đăng bức thư ngỏ có chữ ký của nhiều trí thức cả trong lẫn ngoài nước. Trên danh sách này có tên nhiều nhà hoạt động, nhà văn nhà thơ, nhà báo và một số đảng viên Đảng Cộng Sản Việt Nam. Danh sách này còn có chữ ký của một số lãnh đạo tôn giáo và quân đội, trong đó có Thiếu Tướng Nguyễn Trọng Vĩnh.

Bức thư ngỏ tố cáo mưu đồ lấn chiếm Biển Đông và “hành vi xâm lược bằng vũ lực, ngang nhiên vi phạm luật pháp và các cam kết quốc tế” mà Trung Quốc đã ký kết.

Bức thư ngỏ này được soạn thảo bởi nhóm trí thức đã khởi xướng kiến nghị 72 và ký tuyên bố quyền thực thi quyền chính trị và dân sự.

Trong một cuộc phỏng vấn dành cho Ban Việt ngữ-VOA, một trong những người đã ký vào thư ngỏ, Tiến sĩ Nguyễn Quang A, cho biết thông điệp chính của lá thư ngỏ này:

Cái thông điệp nổi bật là phải dứt bỏ 4 tốt và 16 chữ vàng, mối quan hệ lệ thuộc vào Trung Quốc, đấy là cái thứ nhất. Thứ hai là, chỉ có xây dựng một hệ thống dân chủ thực sự, một nền dân chủ và một nền pháp trị thực sự, tức là không còn độc đảng, không còn toàn trị thì Việt Nam mới có cơ chống ngoại xâm, bởi vì Việt Nam hiện bây giờ đang trơ trọi, tuy rằng trong nước, Tivi vẫn nói rằng nhân dân thế giới ủng hộ, nhưng mà thực sự là bất chấp sự kêu gọi của ông Thủ Tướng, những nước mà lên tiếng mạnh mẽ cũng chỉ nói một cách chiếu lệ mà thôi bởi vì một nước độc đảng, một chế độ độc tài khó mà thuyết phục được những người khác làm bạn.”

Tiến sĩ Nguyễn Quang A, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu IDS và từng là Chủ tịch Hội Tin Học Việt Nam, nói rằng đã đến lúc Đảng Cộng Sản Việt Nam nên gạt sang một bên 16 chữ vàng và 4 chữ tốt trong quan hệ với Trung Quốc.

Nhưng liệu tình hình thực tế trong nước đã chín muồi cho các đảng chính trị khác sẵn sàng hoạt động hay chưa, Tiến sĩ Nguyễn Quang A nói:

“Tôi nghĩ rằng nếu mà người dân thúc ép và bản thân những người cầm quyền cũng hiểu được điều đấy và có một thay đổi về mặt pháp luật, hợp thức hóa các đảng chính trị khác hoạt động thì tôi nghĩ rất là nhanh chóng họ có thể tự tổ chức được, chứ không có gì là quá khó khăn cả.”

Bức thư ngỏ nói chính quyền Việt Nam vẫn trấn áp các cuộc biểu tình khi người dân muốn bày tỏ ý chí muốn bảo vệ chủ quyền quốc gia và chống xâm lược trước dã tâm muốn thôn tính Biển Đông của Bắc Kinh.

Nhóm khởi xướng bức thư ngỏ nói rằng tình hình nguy hiểm hiện nay là một thách thức, nhưng có thể là “một cơ hội lớn cho dân tộc chấn hưng theo con đường dân tộc và dân chủ”.
Bức thư kêu gọi người Việt Nam ở trong và ngoài nước hãy đoàn kết và kiên quyết đấu tranh để bảo vệ độc lập  và chủ quyền quốc gia.

Nguồn: boxit.com, VOA Interview Pending



Đã tới lúc VN thừa nhận mạng xã hội?

Angela Vu

Gửi tới BBC Tiếng Việt từ Sydney

̣p nhật: 13:09 GMT - thứ năm, 29 tháng 5, 2014

·         Facebook

·         Twitter

·         Google+

·         chia sẻ

·         Gi cho bn bè

·         In trang này

Th tướng Nguyn Tn Dũng hôm 23/5/2014 có bài trên trang blog ca Din đàn Kinh tế Thế gii (WEF) đ khng đnh v s hp dn ca môi trường kinh doanh ti Vit Nam nhân dp ông tham d din đàn này ti Philippines.

Các bài liên quan

·         ‘VN nên thừa nhận xã hội dân sự’

·         Điều trần về tự do báo chí VN ở Hoa Kỳ

·         Bắt 'khẩn cấp' blogger Hữu Vinh

Chủ đề liên quan

·         Xã hội Việt Nam

Đây chỉ là một trong rất nhiều biện pháp được Chính phủ Việt Nam sử dụng để khôi phục hình ảnh Việt Nam trong con mắt các nhà đầu tư nước ngoài sau các cuộc biểu tình quá khích, cướp phá nhằm vào doanh nghiệp Trung Quốc diễn ra tại Bình Dương và Hà Tĩnh sau sự kiện Trung Quốc hạ đặt giàn khoan dầu trong vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam ngày 1/5 vừa qua.

Điều gây ngạc nhiên cho người dân Việt Nam và giới quan sát không phải là nội dung của bài viết này, mà là việc lần đầu tiên một vị thủ tướng của Việt Nam đã sử dụng mạng xã hội để quảng bá hình ảnh Việt Nam – một đất nước mà tổ chức Phóng viên không Biên giới (Reporters without Borders) vẫn thường gọi là Kẻ thù của internet (an enemy of the internet) bởi chính sách hạn chế mạng xã hội và tình trạng bắt giữ và bỏ tù những người viết blog bất đồng chính kiến.

Sự kiện Thủ tướng viết blog và những động thái tích cực khác gần đây đã khiến không ít người đặt câu hỏi: Liệu có một sự thay đổi trong chính sách của Chính phủ trong việc sử dụng mạng xã hội ở Việt Nam?

Những tín hiệu đáng mừng

Còn nhớ chỉ hơn một tháng trước, người dân và cộng đồng mạng ở Việt Nam đã hồ hởi hoan nghênh việc Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam quyết định đi thị sát tình hình dịch sởi sau khi đọc Facebook post của một bác sĩ nói về sự nghiêm trọng của bệnh dịch này.

Phó thủ tướng Vũ Đức Đam đã thị sát tình hình dịch sởi sau khi đọc tin từ Facebook

Nhờ chuyến đi này của Phó thủ tướng, những thông tin và con số thật về tình hình bệnh sởi đã được công khai và Chính phủ đã có những chỉ đạo quyết liệt để ngăn chặn sự lây lan và dập dịch.

Các nhà báo trong nước ngay lập tức đã lên tiếng ủng hộ việc Chính phủ sử dụng mạng xã hội như một tham khảo cho quyết định điều hành của mình.

Ba ngày sau chuyến thị sát của Phó thủ tướng, VietnamNet đã có bài viếtBấmRút ASIAD, Chính phủ và... Facebook nói về vai trò ngày càng quan trọng của mạng xã hội, đặc biệt là Facebook, một mạng xã hội phổ biến nhất và có tới 25 triệu người sử dụng ở Việt Nam.

Theo bài viết, Facebook là kênh thông tin nhanh nhậy và đa chiều, là một sự tham khảo không thể thiếu đối với những nhà lãnh đạo ra quyết sách chứ không chỉ là nơi cư dân mạng, các blogger... bày tỏ những quan điểm bất đồng chính kiến như nhiều người thường nghĩ.

"Mạng xã hội là nơi dội lại các chính sách ban hành một cách nhanh chóng và đầy đủ và “nó cũng chân thực hơn rất nhiều các bản báo cáo của các bộ, ngành gửi lên - nhiều khi cố ý giấu nhẹm những vấn đề thực tế để bảo vệ thành tích ngành, vì lợi ích cá nhân của ai đó”."

Mạng xã hội là nơi dội lại các chính sách ban hành một cách nhanh chóng và đầy đủ và “nó cũng chân thực hơn rất nhiều các bản báo cáo của các bộ, ngành gửi lên - nhiều khi cố ý giấu nhẹm những vấn đề thực tế để bảo vệ thành tích ngành, vì lợi ích cá nhân của ai đó”.

Tác giả bài viết thậm chí còn thẳng thắn rằng những ý kiến yêu cầu phải chặn, đóng cửa Facebook tại Việt Nam “cho thấy sự thiếu nhạy cảm với những công cụ mà nếu biết tận dụng sẽ rất hữu ích cho Nhà nước.”

Một thực tế thú vị khác là trong những tuần gần đây, các nhà báo trong nước đã thường xuyên trích dẫn công khai những thông tin từ mạng xã hội làm cơ sở để đưa ra các câu hỏi tại các cuộc họp báo của Chính phủ về dịch sởi hay vấn đề Biển Đông – điều trước đây rất ít người dám làm. Trên thực tế, các nhà báo trước đây khi dùng thông tin mạng xã hội thường không dẫn nguồn.

Thêm vào đó, không chỉ có những tin tức thời sự về biển Đông mà cả những bài phân tích về quan hệ Việt - Trung, động thái hay dở của Chính phủ hay những thông tin về việc tổ chức, tham gia, diễn biến của các cuộc biểu tình ôn hòa đã được chia sẻ rộng rãi và liên tục trên các trang blog, Facebook mà không gặp trở ngại.

Người dân đang được hít thở một bầu không khí tự do chừng như chưa bao giờ có!

Nới lỏng tạm thời hay vĩnh viễn?

Mạng xã hội cũng là nơi chỉ ra những sai sót chính tả như biển hiệu tiếng Anh trong nghi lễ này.

Tận hưởng quyền tự do mới nhưng không ít người đã tự hỏi sự nới lỏng này của Chính phủ sẽ kéo dài bao lâu?

Câu hỏi này hoàn toàn có lý vì Chính phủ Việt Nam có “bề dày” lịch sử hạn chế và kiểm duyệt báo chí và mạng xã hội.

Chỉ chưa đầy một năm trước, hồi tháng 9/2013, Việt Nam đã ban hành Nghị định 72 về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng trong đó cấm người sử dụng mạng xã hội cung cấp, chia sẻ tin tức thời sự tổng hợp (khoản 4, điều 20).

Lý do là nhằm ngăn chặn việc vi phạm bản quyền và bảo vệ an ninh quốc gia nhưng thực chất, đây là quy định nhằm thắt chặt sử kiểm soát đối với những nội dung được đăng tải và chia sẻ trên mạng xã hội.

Trong khi các thể chế dân chủ cho rằng những phản biện, phê phán thậm chí chỉ trích sẽ giúp họ tiến bộ hơn thì việc lắng nghe những tiếng nói trái chiều vẫn khó được Chính phủ Việt Nam chấp nhận.

Cho đến nay, theo tổ chức Phóng viên không Biên giới, Việt Nam vẫn còn giam giữ 33 bloggers và rất nhiều trong số họ bị bỏ tù vì “tuyên truyền chống Nhà nước” và “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”.

"Cho đến nay, theo tổ chức Phóng viên không Biên giới, Việt Nam vẫn còn giam giữ 33 bloggers và rất nhiều trong số họ bị bỏ tù vì “tuyên truyền chống Nhà nước” và “lợi dụng các quyền tự do dân chủ”."

Hôm 5/5 vừa qua, Hà Nội đã bắt giữ blogger nổi tiếng Nguyễn Hữu Vinh, người sáng lập trang blog Anhbasam và nhân viên của ông là chị Nguyễn Thị Minh Thúy cũng vì tội lợi dụng các quyền tự do dân chủ.

Cách đây khoảng hai năm, không lâu sau khi Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tái đắc cử nhiệm kỳ hai, Việt Nam từng “nếm” sức mạnh của mạng xã hội khi những thông tin mất đoàn kết, đấu đá nghiêm trọng trong nội bộ Đảng và Chính phủ được tung ra trên các trang blogs Quan Làm Báo và Dân làm báo và trở thành tâm điểm của đời sống dư luận đồng thời đem lại một sự thất vọng lớn trong nhân dân.

Ngày 12/9/2012, Thủ tướng đã phải chỉ đạo điều tra, xử lý hai trang blogs có nội dung “bôi đen bộ máy lãnh đạo của đất nước” này cùng với một số mạng xã hội khác.

Chỉ đạo của Thủ tướng cũng yêu cầu các cán bộ đảng viên, công chức, viên chức nhà nước không xem, không sư dụng loan truyền những thông tin phản động từ những blogs và website này.

Yêu cầu Bộ Thông tin Truyền thông “khẩn trương trình” nghị định về Quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng cũng là một trong những nội dung của chỉ đạo này.

Tiến trình dân chủ hóa đời sống chính trị ở Việt Nam đang trong một giai đoạn phát triển quan trọng với những nhân tố thuận lợi.

Liệu Việt Nam sẽ đẩy nhanh tiến trình này thông qua việc duy trì sự nới lỏng quản lý mạng xã hội, tránh xa khỏi cái bóng của Trung Quốc hay sẽ quay lại với những hạn chế cũ khi những biến cố lớn cần huy động sức mạnh toàn dân như việc Trung Quốc hạ đặt giàn khoan trái phép qua đi?

Thực tế cho thấy mạng xã hội đã khiến người Việt Nam trở nên mạnh bạo, hiểu biết và ủng hộ dân chủ hơn.

Với sự duy trì của chế độ một Đảng lãnh đạo và với lịch sử áp chế báo chí và mạng xã hội, nhiều khả năng Chính phủ Việt Nam sẽ lựa chọn trở về con đường cũ.

Tuy nhiên, trong bối cảnh người dân Việt trong và ngoài nước chưa bao giờ đoàn kết và đồng lòng yêu nước như hiện nay, nếu chọn con đường đẩy mạnh dân chủ hóa, đây sẽ là cơ hội tuyệt vời cho Chính phủ Việt Nam cải thiện lòng tin trong nhân dân, vượt qua những thách thức nội bộ và quan trọng hơn cả là tạo ra những tiền đề tốt để đưa đất nước tiến lên.

Thư ng v tình hình khn cp ca đt nước

Kính gi đng bào Vit Nam trong nước và nước ngoài,
cùng toàn th các đng viên Đng Cng sn Vit Nam

T đu tháng 5 năm 2014, Trung Quc huy đng nhiu loi tàu, đc bit là tàu vũ trang, tàu quân s và c máy bay ym tr cho vic đt trái phép giàn khoan Hi Dương 981 ti v trí sâu trong thm lc đa và vùng đc quyn kinh tế ca Vit Nam, xâm hi tàu, thuyn ca ngư dân và tàu công v ca Vit Nam hot đng vùng bin này. Đó là hành vi xâm lược bng vũ lc, ngang nhiên vi phm lut pháp và các cam kết quc tế mà chính Trung Quc đã ký kết, đánh du mt bước leo thang mi rt nguy him ca thế lc bành trướng Trung Quc trong mưu đ ln chiếm Bin Đông, xâm phm nghiêm trng ch quyn ca Vit Nam, uy hiếp ch quyn ca mt s nước khác tiếp giáp Bin Đông và đe da trc tiếp hòa bình, an ninh, an toàn hàng hi trong khu vc. Hành đng này, cùng vi thái đ ngoan c, xuyên tc s tht trước s phn đi ca dư lun quc tế, đã phơi trn dã tâm bành trướng ca nhà cm quyn Trung Quc, phn bi quan h hu ngh gia nhân dân hai nước Vit-Trung.

Tình thế him nghèo khi ch quyn quc gia b xâm phm đòi hi phi phân tích, d báo din biến và có đi sách ch đng ng phó. Trách nhim này được đt ra trước hết cho cơ quan lãnh đo Đng Cng sn Vit Nam (ĐCSVN), đng đang cm quyn. My ngày sau khi Trung Quc đt giàn khoan, Hi ngh ln th 9 Ban Chp hành Trung ương khóa XI ca ĐCSVN đã hp trong 7 ngày (t 8/5 đến 14/5 năm 2014) song không đáp ng yêu cu nêu trên. Phát biu khai mc và bế mc ca Tng Bí thư Đng CSVN cũng như thông báo ca Hi ngh khi kết thúc đu không lên án, phân tích và đ ra đi sách chng li mưu đ và hành đng xâm lược mi ca thế lc bành trướng Trung Quc. Như vy, khi đt nước đi mt vi nguy cơ ln, Ban Chp hành Trung ương ĐCSVN, trước hết là Tng Bí thư và B Chính tr đã buông lơi trách nhim ca mình đi vi nước, vi dân.

Trước dã tâm ca nhà cm quyn Trung Quc, nhân dân mun bày t ý chí chng xâm lược, bo v ch quyn quc gia, nhưng các cuc biu tình ôn hòa trong my năm qua đu b nhà cm quyn trn áp. Sau “v giàn khoan,” các cuc biu tình yêu nước ca dân vn không được chính quyn ng h, mà còn dùng nhiu hình thc ngăn tr, phá đám nên không đt quy mô và hiu qu th hin đúng s phn n và đoàn kết ca 90 triu dân Vit trước k xâm lăng. 

Nghiêm trng hơn na là s mt cnh giác và tình trng đt ngt tê lit đến khó hiu ca nhà cm quyn và các lc lượng an ninh đ cho nhng phn t xu chen vào các cuc biu tình kích đng bo đng phá hoi mt s nơi, gây thit hi cho mt s doanh nghip nước ngoài, cho nn kinh tế và cho uy tín quc gia. Dư lun chưa được biết chính xác ai đng sau nhng v kích đng có ch đích này, song thy rõ mt điu là nhà cm quyn Trung Quc đã lp tc thi phng nhng cuc bo đng này đ làm m hành vi xâm lược Bin Đông và bôi xu hình nh Vit Nam. Các cp chính quyn nước ta trong khi tr giúp các doanh nghip b thit hi, trn an các nhà đu tư nước ngoài, li ly các s c đó làm c đ ngăn chn nhân dân tiếp tc biu tình phn đi Trung Quc xâm lược.

Tình thế hiểm nghèo của đất nước hiện nay vừa thách thức nghiêm trọng, vừa tạo cơ hội lớn cho dân tộc ta chấn hưng đất nước theo con đường dân tộc và dân chủ, trước hết là giải tỏa nhận thức mơ hồ về thế lực bành trướng Trung Quốc, thấy rõ sự xâm nhập, lũng đoạn bằng nhiều thủ đoạn tinh vi và thâm độc của thế lực này trên nhiều mặt mà nước ta phải phấn đấu để thoát khỏi sự phụ thuộc, xây dựng quan hệ láng giềng hòa bình, hữu nghị trên cơ sở tự chủ, bình đẳng, tôn trọng lẫn nhau.

Dư luận xã hội ghi nhận và ủng hộ những quan điểm và hành động tích cực trong thời gian gần đây của không ít người có trách nhiệm trong bộ máy cầm quyền ở các ngành, các cấp trước mưu đồ bành trướng của Trung Quốc. Trong những biểu hiện đó, nổi lên lời phát biểu của Thủ tướng tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN họp ngày 11-5, tại hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới khu vực Đông Á ngày 22-5, đặc biệt là lời khẳng định “Việt Nam nhất định không chịu đánh đổi chủ quyền thiêng liêng để nhận lấy một thứ hòa bình, hữu nghị viển vông, lệ thuộc nào đó”, thể hiện đúng ý chí của nhân dân ta.

Tình hình hiện nay đòi hỏi và tạo cơ sở cho các cán bộ, đảng viên trung thành với tâm nguyện vì dân vì nước cùng với nhân dân vạch rõ và đấu tranh không khoan nhượng chống lại những quan điểm và thái độ nhu nhược đối với kẻ xâm lược, dùng bạo lực, lừa mị đối với dân, lo mất chức quyền hơn mất nước của một số người lãnh đạo ở cơ quan Trung Ương và các cấp, đặc biệt là những kẻ có quan hệ mờ ám với nhà cầm quyền Trung Quốc. 

Những nhân tố tích cực trong giới cầm quyền cần thoát khỏi sự khống chế và kìm hãm lâu nay, gắn bó mật thiết với dân để cùng nhân dân thúc đẩy cải cách chính trị, chuyển đổi thể chế từ toàn trị sang dân chủ một cách ôn hòa, gắn với cải cách kinh tế, văn hóa, giáo dục, đưa đất nước ra khỏi cuộc khủng hoảng toàn diện và sâu sắc hiện nay, mở ra một trang mới trong lịch sử dân tộc. Chỉ có như vậy chúng ta mới tập hợp, đoàn kết được toàn dân tộc và thu hút được sự đồng tình, ủng hộ mạnh mẽ của nhân loại tiến bộ để có đủ sức mạnh bảo vệ và phát triển đất nước.

Không một thủ đoạn lừa bịp, hăm dọa hay bạo lực nào từ bên ngoài có thể khuất phục được ý chí bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta!

Không một sự lừa mị, một hành động trấn áp nào có thể lung lạc được tinh thần yêu nước của nhân dân!

Chúng tôi tin tưởng rằng cuộc đấu tranh nêu trên của những đảng viên vì nước vì dân của Đảng CSVN sẽ được nhân dân nhiệt tình ủng hộ, góp sức. 

Mọi người Việt Nam hãy đồng lòng kiên quyết đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền quốc gia bằng nhiều hình thức thể hiện rõ tính chính nghĩa và nhân văn, hết sức cảnh giác trước những thủ đoạn kích động của thế lực bành trướng Trung Quốc và tay sai, hết lòng cổ vũ, hỗ trợ các chiến sĩ bảo vệ biển đảo và ngư dân bám biển, đồng thời góp phần tích cực thúc đẩy cải cách chính trị, xây dựng nền dân chủ và pháp trị thực sự, đổi mới và phát triển kinh tế, văn hóa để bảo vệ chủ quyền, đưa đất nước thoát khỏi lệ thuộc và tụt hậu.

Chúng tôi mong nhận được sự đồng tình, hưởng ứng của đồng bào ở trong và ngoài nước cùng với nhiều đảng viên ĐCSVN, thể hiện trước hết bằng việc ký thư ngỏ này và vận động nhiều người khác tham gia.

Đ ký tên xin ghi rõ: (1) h tên; (2) ngh nghip; (3) đa ch cư trú (mc thành ph, tnh); (4) nước nơi đang cư trú; và gi v đa ch thungovn2014@gmail.com


Những người ký tên đầu tiên  và tập đoàn CSVN, 
1.     Phạm Xuân Yêm, nguyên Giám đốc Nghiên cứu Khoa học (CNRS), Đại học Pierre et Marie Curie, Paris, Pháp
2.     Nguyễn Đắc Xuân, nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử, Huế
3.     Tô Nhuận Vỹ, nhà văn, Huế
4.     Nguyễn Trọng Vĩnh, Thiếu tướng, Hà Nội
5.     J.B Nguyễn Hữu Vinh, kỹ sư, blogger, nhà báo tự do, Hà Nội
6.     Dương Tường, nhà thơ – dịch giả, Hà Nội
7.     Hoàng Minh Tường, nhà văn, Hà Nội
8.     Trần Thị Tươi, làm biên tập website, TP HCM
9.     Hoàng Tụy, GS, Viện Toán học, Hà Nội
10.                        Nguyễn Đức Tùng, M.D., Canada
11.                        Vũ Quốc Tuấn, nguyên trợ lý Thủ tướng Chính phủ Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
12.                        Tô Văn Trường, TS, chuyên gia tài nguyên nước và môi trường, TP HCM
13.                        Nguyễn Trung, nguyên trợ lý cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Hà Nội
14.                        Phạm Đình Trọng, nhà văn, TP HCM
15.                        Nguyễn Thị Khánh Trâm, nghiên cứu viên về văn hóa, TP HCM
16.                        Phạm Toàn, nhà giáo nghỉ hưu, Hà Nội
17.                        Nguyễn Minh Tịnh, Australia
18.                        Phan Văn Thuận, Giám đốc công ty TNHH Phú An Định, TP HCM
19.                        Nguyễn Thị Thu, cán bộ nghỉ hưu, TP HCM
20.                        Đào Tiến Thi, ThS, nhà giáo, nhà văn, nhà nghiên cứu ngôn ngữ, Uỷ viên Ban Chấp hành Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Hà Nội
21.                        Lê Thân, đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam, nguyên cán bộ phong trào đấu tranh của nhân dân, sinh viên, học sinh tranh thủ dân chủ Thành phố Đà Lạt, cựu tù chính trị Côn Đảo, TP HCM
22.                        JM. Lê Quốc Thăng, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
23.                        Trần Minh Thảo, viết văn, Bảo Lộc, Lâm Đồng
24.                        Trần Quang Thành, nhà báo, Slovakia
25.                        Antôn Lê Ngọc Thanh, linh mục Dòng Chúa Cứu Thế, Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
26.                        Thân Hải Thanh, nguyên Tổng Giám đốc Benthanhtourist, TP HCM
27.                        Trần Thị Băng Thanh, nghiên cứu văn học cổ Việt Nam, Hà Nội
28.                        Nguyễn Quốc Thái, nhà báo, TP HCM
29.                        Trần Công Thạch, nhà giáo nghỉ hưu, Sài Gòn
30.                        Nguyễn Hữu Tế, TP HCM
31.                        Bùi Ngọc Tấn, nhà văn, Hải Phòng
32.                        Đào Xuân Sâm, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
33.                        Trần Ngọc Sơn, kỹ sư, Pháp
34.                        Tô Lê Sơn, kỹ sư cơ khí, TP HCM
35.                         André Menras Hồ Cương Quyết, cựu tù chính trị chế độ cũ, Cộng hòa Pháp
36.                        Bùi Minh Quốc, nhà báo, nguyên Tổng Biên tập tạp chí Lang Bian, Đà Lạt
37.                        Nguyễn Đăng Quang, Đại tá, nguyên cán bộ Bộ Công an, Hà Nội
38.                        Đặng Bích Phượng, đã nghỉ hưu, Hà Nội
39.                        Hiền Phương, nhà văn, TP HCM
40.                        Huỳnh Sơn Phước, nhà báo, nguyên thành viên IDS, Hội An
41.                        Hà Sĩ Phu, TS, nhà văn tự do, Đà Lạt
42.                        Nguyễn Hữu Châu Phan, nhà nghiên cứu, Huế
43.                        Nguyễn Văn Nhượng, kỹ sư, Thụy Sĩ
44.                        Hồ Ngọc Nhuận, nguyên Chủ bút nhật báo Tin Sáng Sài Gòn, TP HCM
45.                        Nguyễn Quang Nhàn, cán bộ công đoàn hưu trí, Đà Lạt
46.                        Nguyễn Thái Nguyên, TS, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng, Hà Nội
47.                        Trần Đức Nguyên, nguyên Trưởng ban Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Phan Văn Khải, Hà Nội
48.                        Nguyễn Đình Nguyên, TS, Australia
49.                        Hạ Đình Nguyên, hưu trí, TP HCM
50.                        Nguyên Ngọc, nhà văn, Hội An – Hà Nội
51.                        Nguyễn Xuân Nghĩa, TS, giảng viên, TP HCM
52.                        Kha Lương Ngãi, nguyên Phó Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
53.                        Trần Tố Nga, nhà giáo về hưu, Huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh của Pháp, hiện sống ở Paris
54.                        La Thi Nga, sinh viên, CHLB Đức
55.                        Ngô Minh, nhà thơ, Huế
56.                        Phạm Gia Minh, TS Kinh tế, Hà Nội
57.                        GBt. Huỳnh Công Minh, linh mục Tổng Giáo phận Sài Gòn, TP HCM
58.                        Phan Đắc Lữ, nhà thơ, TP HCM
59.                        Lê Thăng Long, kỹ sư, TP HCM
60.                        Mai Thái Lĩnh, nhà giáo nghỉ hưu, nhà nghiên cứu độc lập, Đà Lạt, Lâm Đồng
61.                        Hồ Uy Liêm, PGS TS, nguyên quyền Chủ tịch Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt Nam, Hà Nội
62.                        Cao Lập, hưu trí, cựu tù chính trị Côn Đảo, nguyên Giám đốc Làng Du lịch Bình Quới – Saigontourist
63.                        Võ Thị Lan, cán bộ hưu trí (Công an TP- HCM), TP HCM
64.                        Phạm Chi Lan, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải, nguyên Phó Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
65.                        Tương Lai, nguyên Viện trưởng Viện Xã hội học Việt Nam, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Võ Văn Kiệt, TP HCM
66.                        Trần Minh Khôi, kỹ sư điện toán, Đức
67.                        Vũ Trọng Khải, chuyên gia độc lập về phát triển nông thôn, TP HCM
68.                        Hoàng Hưng, nhà thơ, nhà báo tự do, TP HCM
69.                        Hà Thúc Huy, PGS TS, giảng dạy đại học, TP HCM
70.                        Nguyễn Thế Hùng, GS TS ngành Thủy lợi, Phó Chủ tịch Hội Cơ học Thủy khí Việt Nam, TP Đà Nẵng
71.                        Phaolô Nguyễn Thái Hợp, Giám mục giáo phận Vinh
72.                        Tô Hòa, nguyên Tổng biên tập báo Sài Gòn Giải phóng, TP HCM
73.                        Nguyễn Xuân Hoa, nguyên Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin, nguyên Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Huế
74.                        Hồ Hiếu, cựu tù Côn Đảo, nguyên chánh văn phòng Ban Dân vận Thành ủy, TP HCM
75.                        Phạm Duy Hiển, GS, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu hạt nhân Đà Lạt, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
76.                        Phạm Duy Hiển, kĩ sư, đã nghỉ hưu, Bà Rịa – Vũng Tàu
77.                        Vũ Sinh Hiên, nhà nghiên cứu, TP HCM
78.                        Nguyễn Công Hê, TP HCM
79.                        Nguyễn Thị Thanh Hằng, dược sĩ, Pháp
80.                        Võ Thị Hảo, nhà văn, Hà Nội
81.                        Đặng Thị Hảo, TS, Hà Nội
82.                        Nguyễn Gia Hảo, chuyên gia tư vấn (Kinh tế đối ngoại) độc lập, nguyên thành viên Tổ Tư vấn của Thủ tướng Chính phủ (Võ Văn Kiệt), trọng tài viên Trung tâm Trọng tài (Thương mại) Quốc tế Việt nam (VIAC), Hà Nội
83.                        Chu Hảo, nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường, Hà Nội
84.                        Nguyễn Tất Hanh, họa sĩ, nhà thơ, hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng
85.                        Phạm Bá Hải, Ths Kinh tế, Sài Gòn
86.                        Đặng Hạ, lão thành cách mạng, đã nghỉ hưu, Hà Nội
87.                        Lê Minh Hà, nhà văn, Đức
88.                        Lê Công Giàu, nguyên Tổng Thư ký Tổng hội Sinh viên Sài Gòn 1966, nguyên Giám đốc Trung Tâm xúc tiến thương mại đầu tư, TP HCM
89.                        Nguyễn Ngọc Giao, nhà giáo về hưu, Pháp
90.                        Nguyễn Hoàng Giao, nghiên cứu sinh tại Đại học Macquarie, Australia
91.                        Trần Tiến Đức, nhà báo, đạo diễn truyền hình, nguyên Vụ trưởng Vụ Giáo dục – Truyền thông Ủy ban Quốc gia Dân số và Kế hoạch hóa Gia đình, Hà Nội
92.                        Lê Mạnh Đức, hưu trí, TP HCM
93.                        Huy Đức, nhà báo độc lập, TP HCM
94.                        Uông Đình Đức, kỹ sư cơ khí đã nghỉ hưu, TP HCM
95.                        Phạm Ngọc Đăng, GS TSKH, Nhà giáo Nhân dân, Hà Nội
96.                        Nguyễn Đình Đầu, nhà nghiên cứu, TP HCM
97.                        Nguyễn Đức Dương, nghiên cứu tiếng Việt, cán bộ nghỉ hưu, TP HCM
98.                        Lê Đăng Doanh, TS Kinh tế, nguyên thành viên Ban Nghiên cứu của Thủ Tướng, nguyên thành viên Viện IDS, Hà Nội
99.                        Doãn Mạnh Dũng, kỹ sư Khai thác Vận tải biển, Phó Chủ tịch, Tổng Thư ký Hội Biển TP HCM, TP HCM
100.                   Hoàng Dũng, PGS TS, Đại học Sư phạm TP HCM, TP HCM
101.                   Nguyễn Xuân Diện, TS Ngữ văn, Hà Nội
102.                   Nguyễn Trung Dân, nhà báo, TP HCM
103.                   Phạm Công Cường, TS Hóa học, nguyên giảng viên Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, cán bộ Viện Nghiên cứu Năng lượng Nguyên tử Quốc gia, Hà Nội
104.                   Tiêu Dao Bảo Cự, nhà văn tự do, Đà Lạt
105.                   Ngô Thị Kim Cúc, nhà văn, nhà báo, TP HCM
106.                   Tống Văn Công, nguyên Tổng Biên tập báo Lao Động, TP HCM
107.                   Nguyễn Kim Chung, giáo viên dạy toán đã về hưu, TP HCM
108.                   Nguyễn Phương Chi, biên tập viên chính, nguyên Phó phòng Tạp chí Nghiên cứu văn học, Viện Văn học, Hà Nội
109.                   Nguyễn Huệ Chi, GS, Hà Nội
110.                   Huỳnh Ngọc Chênh, nhà báo, Sài Gòn
111.                   Nguyễn Văn Binh, nguyên dân biểu Quốc hội Sài Gòn, TP HCM
112.                   Nguyễn Thị Hoàng Bắc, nhà giáo, nhà văn, Hoa Kỳ
113.                   Trần Ngọc Báu, nghỉ hưu, Thuỵ Sĩ
114.                    Huỳnh Kim Báu, nguyên Tổng thư ký Hội Trí thức, TP HCM
115.                    Nguyễn Quang A, TS, nguyên Viện trưởng Viện IDS, Hà Nội
Đợt 2:
116.                      Phm Tư Thanh Thin, nhà báo, nguyên Phó ban Vit ng đài RFI, Pháp
117.                      Li Nguyên Ân, nhà nghiên cu văn hc, Hà Ni
118.                      Nguyn Tường Thy, viết báo t do, Hà Ni
119.                      Phm Xuân Nguyên, Ch tch Hi Nhà văn Hà Ni, Hà Ni
120.                     Nguyễn Lộc, giảng dạy Đại học, TP HCM
121.                     Ý Nhi (Hoàng Thị Ý Nhi), làm thơ, TP HCM
122.                     Nguyn Đc Diên, bác sĩ Nha khoa, TP HCM
123.                     Nguyn Quang Thân, nhà văn, TP HCM
124.                     D Ngân, nhà văn, TP HCM
125.                     Bùi Minh Quỳnh, k sư cu đường, Ngh An
126.                     Nguyn Văn Dũng, nhà giáo, nhà văn, Huế
127.                     Nguyn Huy Văn, k sư đin, TP HCM
128.                     Vũ Th Bích, hưu trí, Pháp
129.                     Nguyn Viết Lu, ging viên hưu trí, Hà Ni
130.                     Đ Xuân Th, TS Cơ hc ng dng, Hà Ni
131.                     Le Van Minh, CH Czech
132.                     Nguyn Minh Đào, cán b hưu trí 57 tui Đng, tnh An Giang
133.                     Bùi Th Thin Căn, nhà giáo hưu trí, Hà Ni
134.                     Trn Khc Trí, ngh t do, Lâm Đng
135.                     Nguyn Văn Thanh, c nhân kinh tế, TP HCM
136.                     Bùi Đức Hiệp, nhân viên vận tải, TP HCM
137.                     Nguyn Trí, c nhân kinh tế, TP HCM
138.                     Võ Thanh Hà, giáo viên v hưu, Hà Ni
139.                     Huu Loi Ngo nhà phn bin t do, Huế
140.                     Phan C Cường, k sư ô tô, Hà Ni
141.                     Nguyn Phương Nam, cán b ngh hưu, Bà Ra – Vũng Tàu
142.                     Nguyn Cao Phong, Hà Ni
143.                     Nguyn Đăng Hưng, TSKH, Giáo sư Danh d Thc th, Đi hc Liège, B
144.                     Đ Thành Long, giáo viên, TP HCM
145.                     Nguyn Văn Túc, cu quân nhân tình nguyn chiến trường Campuchia, Thái Bình
146.                     Doãn Quc Khoa, TS, kiến trúc sư, ging viên đi hc, Hà Ni
147.                     Nguyn Văn Phú, nghiên cu và ging dy CNRS, Pháp
148.                     Phm Thế Phương, k sư, Hi Phòng.
149.                     Hoàng Quý Thân, PGS TS ngành h thng đin, Hà Ni
150.                     Nguyn Quang, k sư, CH Czech
151.                     Lê Phú Khi, nguyên phóng viên thường trú Đài Tiếng nói Vit Nam ti min Nam, TP HCM
152.                     Đoàn Viết Hip, k sư đin toán, Pháp
153.                     Trn Vit Thng, ThS khoa hc, Hà Ni
154.                     H Trng Đ, k sư cơ khí, TP HCM
155.                     Tran Van Minh, ngh hưu, Đà Nng
156.                     Lê Văn Ng, k sư đã ngh hưu, Nha trang
157.                     Lê Hoàng Lan, TS, cán b v hưu, Hà Ni
158.                     Le Xuan Dieu, kinh doanh, TP HCM
159.                     Bùi Phan Thiên Giang, k sư Tin hc, TP HCM
160.                     H Văn Thân, ngh nghip t do, TP HCM
161.                     Tran Van Thuan, CNC Programmierer, CHLB Đc
162.                     Nguyn Quang Cương, nhân viên bán hàng k thut, Hà Ni
163.                     Nguyn Đc Quyết, k sư xây dng, CHLB Đc
164.                     Đoàn Kim Dung, giáo viên hưu trí, Hà Ni
165.                     Lê Văn Oánh, k sư xây dng, Hà Ni
166.                     Le Xuan Vinh, nông dân, TP HCM
167.                     Đinh Vit Bình, nguyên ging viên trường Đi hc Ngoi Ng – Đi hc Quc gia, Hà Ni
168.                     Ngô Kim Hoa, nhà báo t do, TP HCM
169.                     Nguyn Đình Quyn, kiến trúc/ xây dng, TP HCM
170.                     Phan Hu Nam, CH Czech
171.                     Huyen Stefan, California State Employee, Hoa Kỳ
172.                     Hoàng Thế Đc, k sư, Hà Ni
173.                     John Pham, hc sinh, Hoa Kỳ
174.                     Hà Dương Tun, nguyên chuyên gia công ngh thông tin, Pháp
175.                     Nguyen Van Hai, k sư, doanh nhân, Cambodia
176.                     Nguyn Vũ, k sư, hành ngh t do, TP HCM
177.                     Đng Văn Lp, kiến trúc sư, Hà Ni
178.                     Nguyn Thin Nhân, kế toán, Bình Dương
179.                     Nguyen Phu Vinh, k sư, TP HCM
180.                     Ngô Minh Danh, giáo viên, Đng Nai
181.                     Đng Trn Hùng, bác sĩ, Hà Ni
182.                     Nguyn Ngc Thnh, dược sĩ, Canada
183.                     Trn Thế Vit, nguyên Bí thư Thành y Đà Lt, Lâm Đng
184.                     Hoàng Ngc Trường, k sư hàng hi, thuyn trưởng, Hà Ni
185.                     Trn Văn Bang, k sư, cu binh chng Trung Quc xâm lược biên gii phía Bc, TP HCM
186.                     Nguyn Văn Lý, c nhân, lao đng t do, Hà Tĩnh
187.                     Tng Hoàng Nhân, công nhân, Huế.
188.                     Phm Tun Trung, k sư tin, Australia
189.                     Vũ Tun, GS TS, Đi hc Sư phm Hà Ni, đã ngh hưu, Hà Ni
190.                     Ngô Đc Minh, dy hc, TP HCM
191.                     Ngc Dung Lê, nguyên Tng Biên tp báo Vietnameuropa, nhà báo quc tế IFJ, CH Czech
192.                     Nguyn Quc Ân, dược sĩ đi hc, Hà Ni
193.                     Tran Thi Quy, giáo viên, ngh hưu, CHLB Đc
194.                     Vinh Nguyn, công nhân, Hoa Kỳ
195.                     Pet. Xuân Nguyn, Công ngh thông tin, TP HCM
196.                     Giuse Nguyn Công Bc, linh mc giáo phn Vinh, Ngh An
197.                     Phm Văn L, k sư cu đường, TP HCM
198.                     Hoàng Anh Vũ, chuyên gia công ngh ngân hàng, Indonesia
199.                     Khut Thu Hng, nghiên cu khoa hc xã hi, Hà Ni
200.                     Thu San Nguyn Thế Hùng, TS Vt lý, Vin  Vt lý, Hà Ni
201.                     Tuyet A Jethwa, c nhân kinh tế, Nht Bn
202.                     Nguyn Thế Vit, TS Ng văn, CHLB Đc
203.                     Vũ Quang Chính, nhà lun phê bình phim, Hà Ni
204.                     Trn Th Hường, k sư kinh tế đin (v hưu), Hà Ni
205.                     Phm Trng Chánh, TS, nhà nghiên cu, Pháp
206.                     Pham Tuan Anh, kinh doanh, Praha, CH Czech
207.                     Lê Toàn, nhà giáo hưu trí, Đà Nng
208.                     Nguyen Thanh Chính, Hoa Kỳ
209.                     Nguyn Ngc Duyên, TS, Australia
210.                     Nguyn Hu Phùng, bác sĩ hưu trí, Đà Nng
211.                     Trn Ngc Tun, nhà báo, CH Czech
212.                     Chu Văn Tiên, k sư, CHLB Đc
213.                     Phm Minh Hoàng, cu ging viên Đi hc Bách khoa TP HCM, TP HCM.
214.                     Chu Quc Khánh, k sư đin t, c nhân kinh tế, Hà Ni
215.                     Phm Hng Hà, cán b hưu trí, Ngh An
216.                     Nguyn Thanh Nga, MBA, Hà Ni
217.                     Nguyn Ngc Bo, k sư, trách nhim an ninh thông tin, Pháp
218.                     Phm Duy Hin, hưu trí, Gia Lai
219.                     Lê Văn Chinh, k sư xây dng, Đà Nng
220.                     Trn Th Thúy Lan, nhân viên tr lý d án, Hà Ni
221.                     Nguyn Đăng Lp, k sư, Bà Ra – Vũng Tàu
222.                     Nguyn Văn Vinh, hưu trí, Hà Ni
223.                     Nguyn Văn Thnh, k sư, Đà Nng
224.                     Phm Cường, đo din, CHLB Đc
225.                     Nguyn Đào Trường, cán b hưu, Hi Dương
226.                     Trn Rng, nhà giáo, TP HCM
227.                     Nguyn Hoàng Thanh Liêm, An Giang
228.                     Cao Nghĩa, k sư cơ khí, Đà Nng
229.                     Lê Tiên Hoàn, ngh hưu, Hà Ni
230.                     Lê Xuân Đôn, Ch tch Tng hi Sinh viên hc sinh Vit Nam Liên bang Australia, Australia
231.                     Nguyn Tun Anh, kinh doanh t do, Hà Ni
232.                     Phan Tinh, k sư, Anh
233.                     Trn Văn Tùng, lao đng t do, Tuyên Quang
234.                     Nguyn Hu Thao, cu quân nhân F289, B Tư lnh Công binh Quân đi Nhân dân Vit Nam, Bulgaria
235.                     Đ Thành Nhân, qun lý doanh nghip, Qung Ngãi
236.                     Nguyễn Minh Sang, làm ruộng, Bắc Giang
237.                     Quý Hi, nhà tư vn & đào to, TP HCM
238.                     Phan Đình Hùng, k sư v tàu thu, đăng kim (đã ngh hưu), Australia
239.                     Trn Ngc Hùng, y sĩ, Bình Dương
240.                     Nguyễn Thị Thanh Tâm, nhà đầu tư, Hạ̀i
241.                     Trnh Hng Kỳ, nhân viên xut nht khu, TP HCM
242.                     Vũ Tun, TS phn mm và đin t, CHLB Đc
243.                     Đào Văn Bính, k sư xây dng, Hà Ni
244.                     Trn Hu Lc, k sư đin t, TP HCM
245.                     Trn Tư Bình, giáo chc, ch nhim web ch Vit nhanh, Sydney, Australia
246.                     Lê Quang Thanh, TP HCM
247.                     Đào Đình Bình, k sư hưu trí, Hà Ni
248.                     Huỳnh Th Ngc Tuyết, hưu trí, TP HCM
249.                     Nguyn Minh Hin, nguyên Tng biên tp báo Doanh Nhân Sài Gòn, TP HCM
250.                     Trn Hu Khánh, hưu trí, TP HCM
251.                     Phm Văn Đnh, TS KH, Pháp
252.                     Nguyn Khánh Hưng, kim toán viên, Hoa Kỳ
253.                     Phan Quc Tuyên, k sư tin hc, Thy Sĩ
254.                     Lý Đăng Thnh, người chép S, TP HCM
255.                     Phm Thanh Lâm, k sư đin t, Đan Mch
256.                     Lê Manh Tiên, kinh doanh, Lào
257.                     Vũ Ngc Thăng, dch gi, Canada
258.                     Vit Linh, đo din, TP HCM
259.                     Phm Văn Thành, Pháp
260.                     Đoan Trang, nhà báo, Hoa Kỳ
261.                     Đng Kim Toàn, tư doanh, Hoa kỳ
262.                     Nguyn Cường, kinh doanh, CH Czech
263.                     Trn Văn Tn, k sư, CHLB Ðc
264.                     Phan Thanh Bình, Hoa Kỳ
265.                     Lê Công Đnh, tù nhân tư tưởng, b qun chế, TP HCM
266.                     Nguyn Hng Quân, k sư xây dng, TP HCM
267.                     Trn Viết Tôn, bác sĩ, CHLB Đc
268.                     Trn Th Thanh Tâm, ngh hưu, Ba Lan
269.                     Phạm Toàn Thắng, kinh doanh, CH Czech
270.                     Trn Th Quyên, giáo viên, TP HCM
271.                     Nguyn Ngc Đc, k sư tin hc, Pháp
272.                     Nguyn Trung Thành, k sư Giao thông Vn ti, Phú Th
273.                     Đng Li Minh, giáo viên hưu trí, Hi Phòng
274.                     Ngô Đc Th, PGS TS, nhà nghiên cu di sn Hán Nôm, Hà Ni
275.                     Le Luc, ha sĩ, Canada
276.                     Nguyn Quc Quân, TS Toán, Hoa Kỳ
277.                     Nguyn Minh Mn, k sư, Canada
278.                     Nguyn Th Nguyt Nga, Canada
279.                     Nghiêm Ngc Trai, k sư xây dng đã ngh hưu, Hà Ni
280.                     Nguyn Xuân Th, k sư đin t, CHLB Đc
281.                     Nguyn Trng Hoàng, bác sĩ y khoa, Pháp
282.                     Nguyn Quế Hương, kiến trúc sư, Hoa Kỳ
283.                     Hà Minh Hin, TS Hoá hc, Ba Lan
284.                     Võ Tiến Khai, k sư Cơ khí, Biên Hòa
285.                     Trương Long Đin, công chc hưu trí, An Giang
286.                     Trn Đnh Quc Khai Nguyên, FAA Honeywell Aerospace, Hoa Kỳ
287.                     Hoàng Dương Tun, giáo sư đi hc công ngh Sydney (University of Technology, Sydney), Australia
288.                     Nguyn Hu Sâm, cu Giáo sư Trung hc đ nh cp, hi hưu, Australia
289.                     Tien Loc Nguyen, nhà văn, Canada
290.                     Thi Canh Nguyen, công nhân, Canada
291.                     Thu Hai  Irich, giáo viên, Canada
292.                     Nguyn Công Nghĩa, TS bác sĩ, nghiên cu viên đi hc Waterloo, Canada
293.                     Trn Quang Ngc, TS, nghiên cu khoa hc, Hoa Kỳ
294.                     Nguyn S Phương, Dr, CHLB Đc
295.                     Nguyn Thanh Lam, nghiên cu khoa hc, Vin  Công ngh California, Hoa Kỳ
296.                     Hanson Ngo, k sư, Australia
297.                     Trn Quc Hi, TS Đa cht, Hà Ni
298.                     Nguyn Thanh Sơn, viết văn thơ (bút danh: Trm Hương Thơ), CHLB Đc
299.                     Đoàn Nht Hng, nguyên Giám đc S Giáo dc Lâm Đng, Lâm Đng
300.                     Phan Dương, k sư, TP HCM
301.                     Phm Đ Chí, TS Kinh tế, chuyên gia đc lp, Hoa Kỳ
302.                     Nguyn Ngc Thch, hưu trí, TP HCM
303.                     Phan Thành Khương, nhà giáo, Ninh Thun
304.                     Nguyen Diep, Hoa Kỳ
305.                     Phm Anh Tun, k sư, Australia
306.                     Pham Dang Lam, k sư, Australia
307.                     Nguyn Văn Dũng, TS Vt lý, nguyên là cán b ca Vin  Khoa hc Vit Nam, Hoa Kỳ
308.                     Nguyn Văn Mnh, c nhân, TP HCM
309.                     Nguyn Văn Bôn, k sư, nguyên Đi uý Vin K thut Quân s, Hà Ni
310.                     Phm Như Hin, dy hc, Thái Bình
311.                     Nguyen Minh Dang, k sư, TP HCM
312.                     Nguyn Văn Nghiêm, th ht tóc, Hòa Bình
313.                     Trn Quc Hùng, cu giáo viên, TP HCM
314.                     Nguyn Xuân Liên, giám đc bo tàng, Qung Bình
315.                     Giáng Vân, nhà thơ, nhà báo, Hà Ni
316.                     Nguyn Văn Nghiêm, nhà giáo ngh hưu, Hà Ni
317.                     Nguyn Vit Anh, cu sinh viên Hc vin  Hành chính Quc gia; sinh viên Đi hc Lut Hà Ni, Hà Ni
318.                     Tran Hung Thinh, hưu trí, Hà Ni
319.                     Nguyn Th Kim Thoa, bác sĩ, TP HCM
320.                     Nguyn Hng Khoái, chuyên viên tư vn Tài chính, Hà Ni
321.                     Hà Văn Thùy, nhà văn, nhà nghiên cu lch s, văn hóa, TP HCM
322.                     Chu Sơn, nhà văn, TP HCM
323.                     Huỳnh Th Ngc Dip, ging viên Đi hc Nông Lâm Huế, Huế
324.                     Tạ Cao Nguyên, giáo viên Trung học Phổ thông, Lạng Sơn
325.                     Bùi Ngc Mai, c nhân Khoa hc, TP HCM
326.                     Nguyn Nht Hoan, Hoa Kỳ
327.                     Hà Văn Chiến, cu chiến binh, Hà Ni
328.                     Đào Minh Châu, tư vn v chính sách công và hành chính công, Hà Ni
329.                     Ho Van Thuy, k sư hưu trí, Canada
330.                     Nguyn Thành Duy, k sư xây dng, Hà Ni
331.                     Nguyn Đc Vit, IT Contractor, Australia
332.                     Đào Thanh Thy, hưu trí, Hà Ni
333.                     Nguyn Thin Tng, PGS TS, ging viên hưu trí, TP HCM
334.                     Vũ Quc Ng, nhà báo, Hà Ni
335.                     Nguyn Đc Toàn, thc sĩ k thut, TP HCM
336.                     Trn Thin Kế, dược sĩ, Hà Ni
337.                     Trương Chí Tâm, c nhân y khoa, TP HCM
338.                     Nguyn Hu Toàn, k sư (ngh hưu), Hà Ni
339.                     Nguyen Huu Loc, công nhân, TP HCM
340.                     Nguyn Thế Thanh, nguyên Phó Giám đc S Văn hóa Th thao Du lch TP HCM, nguyên Tng Biên tp báo Ph N TP HCM, TP HCM
341.                     Nguyen Manh Cuong, kiến trúc sư, Hoa Kỳ
342.                     Âu Dương Toàn, k sư thy li thy đin, Huế
343.                     Nguyn Quc Hùng, k sư, doanh nhân ngoài quc doanh, Hà Ni
344.                     Hung Huynh, ngh hưu, Hoa Kỳ
345.                     Nguyn Dũng, k sư, TP HCM
346.                     Đinh Th Quỳnh Như, TS ging viên ĐH, hưu trí,TP HCM
347.                     Tô Xuân Thành Vinh, doanh nhân, Nghệ An
348.                     Đ Hu Hi, k sư đin, Hà Ni
349.                     Nguyn Hu Dư, Long An
350.                     Hoàng Ngc Cm, TS KH, Hà Ni
351.                     Đào Thế Long, TS, ging viên đi hc, TP HCM
352.                     Cao Thế Đoàn, sinh viên, Hà Ni
353.                     Nguyn Hu Tuyến, k sư hưu trí, TP HCM
354.                     Phùng Chí Kiên, designer, Hà Ni
355.                     Đ Quý, thc sĩ, Australia
356.                     Phm Văn Th (lut gia – nhà báo Minh Th), TP HCM
357.                     Nguyen Me Linh, TS, đng viên, Huy hiu 50 năm tui đng, TP HCM
358.                     Huỳnh Văn Quc n, giáo viên, Huế
359.                     Vũ Hng Phong, k sư, TP HCM
360.                     Phm Quang Tun, PGS, Đi hc New South Wales, Australia
361.                     Dương Sanh, nhà giáo, Khánh Hòa
362.                     Phan Trn Minh, kinh doanh, TP HCM
363.                     Vũ Thu Hương, TS Đa vt lý, Hà Ni
364.                     Nguyn Xuân Quy, ngh nghip t do, Tin Giang
365.                     Phm Văn Minh, làm rung, Hà Ni
366.                     Trn Bình Nam, bình lun gia, nguyên sĩ quan Hi quân VNCH, cu Dân Biu Quc hi VNCH, Hoa Kỳ
367.                     Lê Doãn Tho, Ths Vt lý Ht nhân, hưu trí, Hà Ni
368.                     T Huy Tuyến, k sư, Hà Ni
369.                     Nguyen Van Hoang, nghiên cu, Nht Bn
370.                     Nguyn Thu Nguyt, nhà giáo v hưu, TP HCM
371.                     Lý Thường, công nhân, Australia
372.                     Hoàng Trng Lun, k sư Đin t Vin thông, TP HCM
373.                     Nguyn Huy Canh, giáo viên, đng viên, Hi Phòng
374.                     Trn Quc Tun, kinh doanh, Hà Ni
375.                     Phm Ngc Thái, nhà thơ, Hà Ni
376.                     Phùng Hoài Ngọc, ThS, nguyên Trưởng bộ môn Ngữ văn Đại học An Giang, An Giang
377.                     Ngô Minh Hi, chuyên viên phân tích đu tư, TP HCM
378.                     Trn Tun, ngh ngip t do, Nha Trang
379.                     Nguyn Th Ngc Giao, Hoa Kỳ
380.                     Nguyn Vit Thu, hưu trí, TP HCM
381.                     Đinh Hoàng Thng, TS, Thành viên “Chương trình Minh triết Nghiên cu Bin Đông”, Hà Ni
382.                     Phm Văn Lc, nhân viên kế toán, TP HCM
383.                     Huỳnh Hi Nam, kế toán, TP HCM
384.                     Trn Văn Th, GS, Đi hc Waseda, Nht Bn
385.                     Nguyen The Phuong, TS, phát trin software, Canada
386.                     Nguyn Văn Viên, kinh doanh, Hà Ni
387.                     Nguyn Ngc Ni, Hà Ni
388.                     Hoàng Anh Tun, TS KH, Singapore
389.                     Bùi Kim Yến, Hà Ni
390.                     Thanh Tran, nurse, Australia
391.                     Phan Văn Hiến, PGS TS, Hà Ni
392.                     Nguyn Quang Luân, th nh, Gia Lai
393.                     Trịnh Ngọc Phương, giáo viên, Phú Thọ
394.                     Nguyn Văn Hn, k sư, ngh hưu, Hà Ni
395.                     Nguyn Thượng Long, dy hc và viết báo, Hà Ni
396.                     Nguyn Văn Ngc, tng là đng viên Đng Cng sn Vit Nam, Thy Đin
397.                     Trn Văn Thành, linh mc, Qung Bình
398.                     Trn Hu Hnh, nguyên Giám đc Đài Australia, Australia
399.                     Trn Đình Nam, nguyên Trưởng ban biên tp Nhà xut bn Kim Đng, Hà Ni
400.                     Phm Quang Long, linh mc giáo phn Vinh, Ngh An
401.                     Dương Tùng, chăn nuôi, Bình Dương
402.                     Phm Kỳ Đăng, làm thơ, viết báo, dch thut, CHLB Đc
403.                     Nguyn Hòa, cao hc hành chánh Sài Gòn, đã hưu, Hoa Kỳ
404.                     Hoàng Xuân Ý, k sư, Ngh An
405.                     Trn Thái Ái Thiên Ân, TP HCM
406.                     Cao Tun Huy, Đng Nai
407.                     Võ Văn Đim, nhà báo, Hoa Kỳ
408.                     Phm Khiêm Ích, nguyên Phó Vin trưởng Vin Thông tin Khoa hc Xã hi, Hà Ni
409.                     Ngô Đình Thm, đ ha máy tính, TP HCM
410.                     Lê Mnh Năm, nghiên cu viên, Hà Ni
411.                     Hoàng Ngc Giao, LS TS, Hà Ni
412.                     Nguyn Văn Quang, k sư xây dng, ngh hưu, Bc Liêu
413.                     Nguyn Quang Ngc, k sư, Hà Ni
414.                     Trn Quc Hưng, công nhân, Đng Nai
415.                     Lê Tun, k sư xây dng, Hà Ni
416.                     Đ Văn Hoàn, tu nghip sinh, Nht Bn
417.                     Lê Hin Đc, công dân chng tham nhũng, Hà Ni
418.                     Vũ Quang Anh Tun, Phó Ch tch H Hip Hi Nails & Thm M Người Vit / Trưởng Phòng Ngoi V Hip Hi Nails & Thm M Người Vit (Vietnamese Nails & Beauty Association USA), Hoa Kỳ
419.                     Khổng Hy Thiêm, kỹ sư Điện, Khánh Hòa
420.                     Nguyn Anh Vân, lut sư, Hà Ni
421.                     Lê Quôc Thai, k sư tin hc, Phap
422.                     Trương Bá Thy, dược sĩ, TP HCM
423.                     Phan Thi Lien, k sư cơ khí, Australia
424.                     Nguyn Minh Tiến, giáo viên, Phú Th.
425.                     Quách Đăng Triu, GS TSKH, thuc Vin Hoá hc Vit Nam, Hà Ni
426.                     Diep Kim Lan, engineer, Hoa Kỳ
427.                     Nguyn Vit, ngh hưu, Hà Ni
428.                     Vũ Duy Hoàn, k sư, Hà Ni
429.                     Trnh Tun Dũng, k sư, Hà Ni
430.                     Trn Khuê, nhà nghiên cu văn hoá, TP HCM
431.                     Tô Oanh, giáo viên ngh hưu, Bc Giang
432.                     Trn Trung Chính, nhà báo, Hà Ni
433.                     Tran Thien Nien, TP HCM
434.                     Nguyen Thi Xuan Hoa, giáo viên đã v hưu có 60 năm tui đng, TP HCM
435.                     Đào Th Ngc Trâm, giáo viên đã v hưu, TP HCM
436.                     Nguyen Thi Lan, công nhân, CHLB Đc
437.                     Phm Tn Hà, chuyên gia Tài nguyên nước, Buôn Ma Thut
438.                     Phm Văn Mu, cán b hưu trí, Hà Ni
439.                     Phan Xuân Ngc, nguyên Phó Hiu trưởng Đi hc Hàng hi, Nha Trang
440.                     Đ Đình Tuân, giáo viên ngh hưu, Hi Dương
441.                     Nguyên Văn Nghĩa, k sư, Nga
442.                     Nguyn Anh Tun, nhân viên văn phòng, TP HCM
443.                     Tun Khanh (tên đy đ Nguyn Tun Khanh), nhc sĩ, TP HCM
444.                     Nguyn Lưu, Hà Lan
445.                     Lê Thanh Tùng, phóng viên t do, TP HCM
446.                     Thu Nguyen, nhân viên bo v, Hoa Kỳ
447.                     Võ Công Bng, k sư xây dng, TP HCM
448.                     Nguyn Hu Cu, nhà giáo ngh hưu, Canada
449.                     Nguyen Thi Thu Thuy, nhân viên tư vn tâm lý hc đường, TP HCM
450.                     Trn Hu Kham, thương binh mù, cu tù chính tr Côn Đo, TP HCM
451.                     Chu Văn Hòa, c nhân, CHLB Đc
452.                     Đng Vũ Chương, Nga
453.                     Thúy Ngoan, designer, Hà Ni
454.                     Lê Nguyên Hi, k sư tin hc, Hoa Kỳ
455.                     Lê Văn Đin, TS Toán hc, Ba Lan
456.                     H Vĩnh Trc, k thut viên vi tính, TP HCM
457.                     Nguyen Minh Nhut, mc sư, Hoa Kỳ
458.                     Bui Quang Trung, k sư xây dng, Pháp
459.                     Lương Nguyn Trãi, giáo viên Trung hc Ph thông, TP HCM
460.                     Trn Hng Nhung, PGS TS Vt lý, cán b hưu trí, Hà Ni
461.                     Nguyn Mnh Hùng (Nam Dao), TS Kinh tế, nguyên GS Đi hc Laval, Canada
462.                     Phm Văn Đng, lái xe, Bà Ra – Vũng Tàu
463.                     Truong Vinh Phuc, cu chiến binh, hưu trí, Hà Ni
464.                     Nguyn Hng Phi, ha sĩ, Thái Lan
465.                     Phm Ngc Lut, nhà báo, nguyên Phó Giám đc Nhà xut bn Văn hóa – Thông tin, Hà Ni
466.                     Nguyn San, ng viên TS Vt lý Hi dương, Hoa Kỳ
467.                     Võ Quang Tu, hưu trí, Canada
468.                     H Sĩ Phú, ThS, k sư, TP HCM
469.                     Khương Vit Hà, ThS, nghiên cu văn hc, Hà Ni
470.                     Tran Kim Nhung, hưu trí, TP HCM
471.                     Trương Li, k sư, TP HCM
472.                     Mai An Nguyn Anh Tun, nhà làm phim đc lp, nhà báo t do, Hà Ni
473.                     Lê Mnh Hùng, k sư Đin, CHLB Đc
474.                     Hoàng Đình Tú, k sư, TP HCM
475.                     Thọ Lê, nhà giáo nghỉ hưu, Australia
476.                     Nguyn Út Vit, sinh viên trường Đi hc Lut TP HCM, Ninh Thun
477.                     Trn Công Tâm, TS, nguyên cán b khoa hc, Nga
478.                     Phan Hùng, b đi ngh hưu, Hà Ni
479.                     Phi Chu, th máy, Hoa Kỳ
480.                     Võ Nam Vit, Nga
481.                     Tuan Tran, k thut gia hàng không, Hoa Kỳ
482.                     Đoàn Th Kim Dung, giáo viên, hưu trí, Hà Ni
483.                     Nghiêm Sĩ Cường, kinh doanh, Hà Ni
484.                     Nguyn Thế Tuyn, bác sĩ, Bc Giang
485.                     T Quang Trung, lut sư tòa Thượng Thm, nguyên hi viên Hi đng Lut sư lut sư đoàn tòa Thượng thm Sài Gòn, Hoa Kỳ
486.                     Pham Thuc, công nhân, Na Uy
487.                     Le Dinh Hong, kế toán, Canada
488.                     Le Thi Nhan, ni tr, Canada
489.                     Nguyn Đình Hòa, đu tư đa c, Hoa Kỳ
490.                     Trn Trung Sơn, ging viên trường Sĩ quan không quân, Khánh Hòa
491.                     Thích Nguyên Hùng, tu sĩ, Pháp
492.                     Nguyn Văn Thch, sinh viên Đi hc Kinh tế, TP HCM



No comments:

Post a Comment