Biệt kích Trung cộng 'sẵn sàng chiến
đấu' trong sứ vụ của chiến hạm tại vùng biển Đông Phi
Sau những diễn biến sôi nổi trong năm
2015, sự căng thẳng ở Biển Đông có vẻ giảm đi từ 2016 đến nay.
Trung cộng có vẻ bớt những hành động
khiêu khích mới cũng như không xây thêm đảo nhân tạo.
Tình hình bắt đầu yên ổn lại và Trung
cộng sẽ từ bỏ tham vọng làm chủ Biển Đông sau khi thất bại tại Tòa án Quốc tế
về luật biển của Liên Hiệp Quốc chăng?
Có lẽ là không. Mục tiêu chiến lược
của Trung cộng vẫn không thay đổi. Đó là nắm quyền kiểm soát trên vùng biển
trong phạm vi của cái mà Trung cộng gọi là chuổi đảo thứ nhất từ Nhật Bản qua
Đài Loan đến tận Mã Lai.
Vùng biển này không
những là nguồn kinh tế quan trọng cho Trung cộng, kiểm soát vùng biển đó sẽ
giúp nước này tạo ưu thế đối với Nhật Bản và Đại Hàn, và nhất là tăng áp lực
lên Đài Loan.
Biện pháp hổ trợ cho mục tiêu này là
tăng cường lực lượng hải quân để có thể đối đầu với hải quân Hoa Kỳ ở miền Tây
Thái Bình Dương và để đủ khả năng thống nhất với Đài Loan bằng vũ lực, nếu cần
thiết.
Kiểm soát vùng Biển Đông
cũng là điều kiện căn bản cho quân đội Trung cộng để triển khai áp lực quân sự
vào Ấn Độ Dương trong tương lai.
Vì thế nên Trung cộng
vẫn tiếp tục quân sự hóa các đảo tại Hoàng Sa và Trường Sa. Các công trình đã
bắt đầu trên các đảo đã được mở rộng. Đầu năm 2016, trên sáu đảo nhân tạo tại
quần đảo Trường Sa những cơ sở mang tính cách quân sự đã hình thành rỏ rệt.
Trên hai đảo được mở
rộng là Đá Vành Khăn (Mischief Reef) và Đá Chữ Thập (Fiery Cross Reef) đã có
hai phi đạo dài khoảng 3 km, đủ để máy bay chiến đấu sử dụng, và theo tin tức
thì máy bay chiến đấu của không quân Trung cộng cũng đã đáp thử ở đây rồi.
Hình chụp qua vệ tinh
ngày 30/11/2016 cho thấy Việt Nam 'cải tạo Đá Lát' ở Trường Sa
Đồng thời vào tháng Hai
2016 Trung cộng đã bắt đầu gắn hệ thống hỏa tiễn phòng không tầm xa HQ-9 trên
đảo Phú Lâm (Woody Island) tại quần đảo Hoàng Sa. Nơi này cũng có một phi đạo.
Cũng theo giới tình báo quân sự Tây Phương thì các chiến đấu cơ tối tân loại
J-11 đã được đóng dài hạn trên đảo này.
Song song với việc xây
cất trên các đảo, sự tăng cường sức lực quân sự của Trung cộng vẫn tiếp tục với
một vận tốc đáng ngại.
Tháng Tư năm nay giới
lãnh đạo Trung cộng đã hãnh diện ra mắt thế giới chiếc hàng không mẫu hạm thứ
hai của hải quân nước này. Chiếc tàu thuộc hạng Type 001A với tên Sơn Đông là
chiếc mẫu hạng đầu tiên do Trung cộng hoàn toàn tự đóng.
Giống như chiếc Liêu
Ninh, mẫu hạm đầu tiên của Trung cộng đã được đóng trên cái sườn cũ của chiếc
mẫu hạm Varyag của Nga, chiếc Sơn Đông hoạt động trên nguyên tắc STOBAR (Short
Take-Off But Arrested Recovery), tức là các máy bay cất cánh trên một bàn nhảy
và khi đáp lại trên tàu thì dùng dây móc để thắng lại.
Đây là phương pháp hoạt
động khác các siêu hàng không mẫu hạm của Hoa Kỳ và Pháp. Thuyền sân bay của
các quốc gia này thuộc vào loại CATOBAR (Catapult Take-Off But Arrested
Recovery). Các máy bay được bắn đi bằng một hệ thống phóng khi cất cánh và khi
đáp thì dùng dây móc.
Ưu điểm của hệ thống
CATOBAR là các chiến đấu cơ có thể cất cánh với một trọng tải cao hơn, do đó có
thể mang nhiều nguyên liệu cũng như vũ khí hơn là khi cất cánh từ một mẫu hạm
STOBAR.
Chiếc mẫu hạm mới của
Trung cộng chưa đủ khả năng để đối đầu với các siêu mẫu hạm của Hoa Kỳ.
Nhưng với nó Trung cộng
đã vượt mặt nước Nga với chiếc Admiral Kuznetzov cũ kỷ và hay hư hỏng.
Hạm đội Nam Hải đón
nhận tàu khu trục Type 052D tới căn cứ Tam Á
Chiếc Sơn Đông cũng chỉ
là một bước nữa trên hành trình để hải quân Trung cộng gia nhập câu lạc bộ của
các cường quốc có siêu mẫu hạm. Cùng lúc khi chiếc Sơn Đông được ra mắt thiên
hạ, hải quân Trung cộng cũng tuyên bố là đã bắt đầu việc thiết kế một chiếc mẫu
hạm thứ ba với số hạng là 002.
Chiếc mẫu hạm này chắc
sẽ giống các hàng không mẫu hạm của các cường quốc Tây phương nhiều hơn.
Nỗ lực của Trung cộng
trên lãnh vực thiết kế tàu sân bay là tiêu biểu cho sự cố gắng của quốc gia này
để tạo ra một lực lượng hải quân có thể đối đầu với hạm đội Thái Bình Dương của
hải quân Hoa Kỳ.
Trong những năm qua hải
quân Trung cộng đã nhập quân hàng loạt những chiến hạm mới tối tân với một nhịp
nhanh chóng đáng ngại.
Từ năm 2013 hải quân
Trung cộng đã nhận được 40 chiếc hộ tống hạm hạng 056 Jiangdao.
Những chiếc tàu này được
trang bị với súng đại bác 76 ly, hệ thống hỏa tiễn phòng không tầm gần FL-3000N
cũng như hỏa tiễn đối hạm. Những hộ tống hạm này được xem như tương đương với
hộ tống hạm hạng Gepard (Project 11660) của Việt Nam.
Chênh lệch cán cân lực
lượng quá lớn
Như thế trung bình cứ
mỗi hai tháng hải quân Trung cộng đã tăng thêm một hộ tống hạm mới. Trong khi
đó Việt Nam đặt bốn chiếc Gepard từ năm 2011 nhưng đến bây giờ vẫn chỉ có vỏn
vẹn hai chiếc Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ.
Từ 2015 đến nay hải quân
Trung cộng còn được thêm 13 chiếc khu trục hạm hạng 052D Luyang. Đấy là những
chiến hạm được trang bị với hệ thống radar và hỏa tiễn giống như hệ thống AEGIS
của các chiến hạm hạng Arleigh Burke của Hoa Kỳ, hiện là loại khu trục hạm hùng
mạnh nhất thế giới. Số khu trục hạm vậy cũng tăng với tỉ lệ khoảng ba tháng một
chiếc.
Ngoài đó, tháng Sáu năm
nay hải quân Trung cộng đã hạ thủy một loại chiến hạm mới còn to lớn và mạnh
hơn hạng 052D nữa. Đó là một chiến hạm thuộc hạng 055 Renhai.
Với chiều dài là 180 m,
trọng lượng nước rẽ hơn 10.000 t và 128 ngăn chứa hỏa tiễn, lớp chiến hạm mới
này tương đương với các tuần dương hạm hạng Ticonderoga của Hoa Kỳ. Chiến hạm
hạng 055 có lẽ được thiết kế để hộ tống các hàng không mẫu hạm trong tương lai
Ngoài sự gia tăng số
lượng và năng lực của các lực lượng chiến đấu trên biển, một phát triển khác ít
được chú ý đến nhưng cũng không ít đáng ngại cũng đã xảy ra từ năm 2011.
Đó là sự tăng cường của
lực lượng thủy quân lục chiến. Bộ Quốc phòng Trung cộng đã tuyên bố trong tháng
11 năm 2016 là sẽ gia tăng lực lượng Thủy quân lục chiến từ hiện nay khoảng
20.000 quân lên đến 100.000 quân.
Tháng Bảy năm 2017 Trung
cộng đã chính thức khai trương căn cứ quân sự đầu tiên cách xa lãnh thổ nước
này tại Djibouti. Một lực lượng thủy quân lục chiến Trung cộng đã được vận
chuyển đến Djibouti trên một tàu đổ bộ hạng 071.
Đó là một quân hạm với
sân đáp trực thăng và cảng chở thuyền đổ bộ và xe thiết giáp trong khoang.
Những tàu hạng 071 có khả năng vận chuyển và yểm trợ một lực lượng thủy quân
lục chiến cấp tiểu đoàn để đổ bộ lên bất cứ bờ biển nào. Hải quân Trung cộng
hiện đang có 4 chiếc tàu loại này và sẽ nhận được nhiều hơn.
Hải quân của Trung cộng
được chia ra ba hạm đội, đó là hạm đội Bắc Hải, hạm đội Đông Hải và hạm đội Nam
Hải. Hạm đội Nam Hải là lực lượng kiểm soát vùng Biển Đông, và là đối thủ trực
tiếp của hải quân Việt Nam trong những cuộc xung đột trong quá khứ và tương
lai.
Lực lượng tác chiến trên
mặt nước của hạm đội này bao gồm chiếc hàng không mẫu hạm Liêu Ninh, ít nhất là
9 khu trục hạm, 30 hộ tống hạm và khoảng 40 tuần duyên hạm.
Hạm đội Nam Hải còn có
khoảng 22 tàu ngầm, trong số đó là toàn bộ lực lượng tàu ngầm nguyên tử chiến
lược của Trung cộng với bốn chiếc hạng 094 Jin. Nỗ lực thiết lập và củng cố
quyền kiểm soát trên Biển Đông cũng nhằm vào mục đích bảo vệ cho hoạt động của những
tàu ngầm chiến lược này.
Trung cộng không chỉ
dùng Hải quân mà còn cử các tàu tuần tra duyên hải đến vùng Trường Sa
Ngoài ra hiện nay hạm
đội Nam Hải có ba chiếc tàu hạng 071 cũng như một số tàu chở quân khác.
Hạm đội Nam Hải là một
lực lượng vô địch trên Biển Đông, và là một mối đe dọa cực kỳ nguy hiểm cho
lãnh hải Việt Nam. Lực lượng hải vận của hạm đội này có thể đưa quân đánh chiếm
bất cứ đảo nào tại Hoàng Sa và Trường Sa.
Thậm chí có thể đổ bộ
lên nhiều đảo cùng một lúc. Ý định tăng cường lực lượng thủy quân lục chiến và
nổ lực đóng tàu chở quân là một dấu hiệu rỏ ràng cho xu hướng chiến lược của
giới lãnh đạo Trung cộng.
Trong hai năm qua Trung
cộng đã hoàn tất việc mở rộng, xây cất căn cứ quân sự trên các đảo Gạc Ma
(Johnson South Reef), Chữ Thập, và sắp kết thúc các cấu trúc đảo nhân tạo trên
các bãi san hô như Đá Tư Nghiã (Hughes Reef). Khoảng cách từ đây đến các đảo
của Việt Nam thậm chí chỉ có 30 cây số.
Trung cộng có thể dùng
các đảo này làm căn cứ hậu cần và đem máy bay chiến đấu đến đây để yểm trợ cho
các lực lượng hải quân đổ bộ lên các đảo Việt Nam.
Các đơn vị đóng trên các
đảo của Việt Nam như Song Tử Tây (Southwest Cay), Sinh Tồn (Sin Cowe Island) và
thậm chí Trường Sa chắc chắn sẽ không đủ quân số và hỏa lực để chống đối một
lực lượng đổ bộ được yểm trợ bởi những tàu hạng 071, hàng không mẫu hạm Liêu
Ninh cũng như chiến đấu cơ từ Đá Chữ Thập.
Trước những đe dọa đó,
Việt Nam chuẩn bị gì?
Tin tức về những phát
triển quân sự tại Việt Nam rất hiếm hoi. Nhưng những gì được biết qua những
nguồn thông tin Tây Phương cho thấy là Quân đội nhân dân vẫn rất bị động.
Mặc dù tình thế địa hình
trên vùng đảo Hoàng Sa và Trường Sa ngày càng bất lợi, những biện pháp trang bị
cho hải quân và không quân không có vẻ theo một kế hoạch chiến lược nhất định
và tạo sự nghi ngờ là giới lãnh đạo Việt Nam chưa có một chính sách quân sự
thích nghi với những thử thách trên Biển Đông.
Năm 2016, hải quân Việt
Nam có hai chiếc hộ tống hạm hạng 11660 (biệt danh của Nato là Gepard) của Nga,
sáu chiếc tàu ngầm hạng 877 (Kilo) và 12 tuần duyên hạm hạng 1241E Molnija
(Tarantul).
Cơ sở của Trung cộng
trên Đá Chữ Thập
Ngoài ra còn năm chiếc
hộ tống hạm nhẹ và lỗi thời thuộc hạng Petya đã được xử dụng từ thập niên 70.
Hiện nay Việt Nam đang
thương lượng mua thêm hai chiếc Gepard nữa. Cuối năm nay chiếc hộ tống hạm
Gepard thứ ba với khả năng chuyên môn săn tàu ngầm sẽ đến Việt Nam.
Sau ba thập niên gần như
không có một biện pháp tân trang nào cho quân đội, từ năm 2011 hải quân Việt
Nam đã trải qua một cuộc tân tiến hóa đáng kể.
Nhưng lực lượng hải quân
hiện nay có lẻ vẫn chưa đủ để duy trì một thế lực ngăn chận nước khác xâm nhập
vùng kinh tế độc quyền và các đảo.
Bảo vệ các đảo là một
mặt, nhưng không kém quan trọng là duy trì đường dây tiếp tế cho các đảo trong
trường hợp có sự xung đột quân sự. Cho nhiệm vụ đó tàu ngầm và đặt biệt là
chiến hạm lớn là dụng cụ thích hợp hơn các tuần duyên hạm hiện đông số nhất
trong đội ngũ của hải quân Việt Nam.
Nhưng hải quân Việt Nam
chỉ có hai chiếc chiến hạm lớn là hộ tống hạm Đinh Tiên Hoàng và Lý Thái Tổ.
Tuy đã được đặt từ sáu năm trước nhưng lớp tàu chiến có năng lực nhất của hải
quân Việt Nam có vẻ không được ưu tiên cho nên hai chiếc còn lại vẫn chưa được
giao.
Thêm nữa thiết bị vận
tải của hải quân Việt Nam để tiếp tế cho các đảo cũng rất giới hạn.
Hải quân Việt Nam hiện
nay có khoảng 25 tàu quân vận. Trong đó có một số tàu cũ hạng LST của hải quân
Việt Nam Cộng Hòa để lại, loại tàu này đã được sử dụng từ thế chiến thứ hai.
Khả năng chở quân và hàng hóa eo hẹp, lực lượng tác chiến cũng giới hạn, như
thế, đường dây tiếp tế cho các đảo sẽ rất dễ bị Trung cộng cắt đứt, nhất là nếu
có máy bay chiến đấu hoạt động từ các đảo Chữ Thập và Vành Khăn.
Trẻ em Nga vẫy cờ Việt
Nam trong lễ trao tàu Gepard cho Hải quân Việt Nam hồi 2016
Ngoài ra hải quân Việt
Nam cũng thiếu thiết bị để rà mìn và không có máy bay thám sát tầm xa. Đó cũng
là những hệ thống vũ khí cần thiết để kiểm soát và giữ những tuyến đường đến
các đảo.
Trong khi đó Việt Nam
lại có ý muốn mua hỏa tiễn hành trình Klub bắn từ tàu ngầm lên đất liền. Hỏa tiễn
Klub hoặc Kalibr là một gia đình hỏa tiễn siêu thanh với nhiều loại và thuộc
vào những vũ khí tối tân nhất của Nga.
Nhưng không rõ là Việt
Nam theo đuổi chiến lược gì với những hỏa tiễn hành trình. Nếu các tàu ngầm
Kilo hoặc các hộ tống hạm Gepard của Việt Nam có được loại hỏa tiễn đối hạm của
gia đình Klub/ Kalibr, thay vì loại bắn mục tiêu trên bờ, thì khả năng đe dọa
của các tàu chiến này đối với hải quân Trung cộng sẽ tăng đáng kể. Và đó sẽ là
một trang bị hợp lý hơn cho hải quân.
Việt Nam cũng muốn mua
loại hỏa tiễn BrahMos của Ấn Độ và Nga cùng chế tạo. Loại hỏa tiễn siêu thanh
này là vũ khí đối hạm lợi hại nhất hiện tại. Nhưng chúng hơi lớn để dùng trên
các hộ tống hạm Gepard.
Và để bắn từ đất liền
với hiệu quả thì Việt Nam lại thiếu phương tiện để phát hiện mục tiêu và điều
khiển hỏa lực, thí dụ như máy bay thám sát.
Mua hay không mua?
Nói tóm tắt, trong tình
thế bây giờ hải quân Việt Nam cần thêm gấp một số chiến hạm lớn cở hộ tống hạm
hoặc khu trục hạm, phương tiện rà mìn, tàu quân vận, máy bay thám sát tầm xa và
hỏa tiễn đối hạm siêu thanh để bắn từ tàu chiến và tàu ngầm.
Nhưng hiện tại không có
dấu hiệu là chính phủ Việt Nam sẽ mua những thiết bị này.
Một yếu tố quan trọng
cho việc bảo vệ chủ quyền trên biển cũng là lực lượng không quân. Việt Nam hiện
nay có 107 chiếc chiến đấu cơ phản lực. Trong đó có 11 chiếc Su-27 và 35 chiếc
Su-30 là những máy bay tân tiến. Số còn lại là chiến đấu cơ loại MiG-21 và
Su-22 lỗi thời.
Hai con số thí dụ từ hai
quốc gia khác cho thấy sự thiếu kém của không quân Việt Nam: Không quân
Singapore hiện đang có 84 chiếc chiến đấu cơ tối tân (F-16 C/D và F-15 SG) để
bảo vệ một lãnh thổ bằng 1/3 diện tích Sài Gòn, không quân Đài Loan có khoảng
400 chiến đấu cơ hiện đại (F-16 A/B, F-5 E, Mirage 2000) cho một lãnh thổ bằng
1/9 Việt Nam.
Giao lưu quốc phòng trong
vùng châu Á - Thái Bình Dương: Hải quân Úc thăm Philippines
Cũng không được quên là
chỉ trên đảo Hải Nam Trung cộng có đóng khoảng 200 chiến đấu cơ.
Với lực lượng không quân
như thế, Việt Nam khó có thể phản ứng mạnh mẻ như Nhật Bản năm 2014 trên Biển
Hoa Đông trong trường hợp Trung cộng tuyên bố thiết lập vùng nhận diện phòng
không (ADIZ, Air Defense Identification Zone) trên không phận Biển Đông.
Nói chung quân đội Việt
Nam có một nhu cầu tân trang khổng lồ.
Ngay đến quân chủng bộ
binh là lực lượng nòng cốt của Quân đội nhân dân cũng vẫn phải lệ thuộc vào
những hệ thống vũ khí cũ mèm từ thập niên 60. Thí dụ điển hình là lực lượng
thiết giáp: đại đa số xe tăng của Việt Nam là loại T-54/ T-55.
Loại chiến xa này đã
xuất hiện từ cuộc chiến tranh Nam Bắc. Những xe tăng đó xem như vô dụng nếu
phải đương đầu với những xe tăng hiện đại hơn của Trung cộng.
Nhưng theo các ước lượng
của giới nghiên cứu quân sự, Việt Nam chỉ dành một ngân sách tương đối nhỏ cho
quốc phòng trung bình là khoảng 4 tỷ USD hàng năm trong những năm kể từ 2014,
mặc dù đó đã gần gấp đôi ngân sách quốc phòng của những năm trước 2011.
Trong đó phần dành để
đầu tư vào vũ khí mới có lẻ chỉ chiếm một phần nhỏ, ước đoán khoảng vài trăm
triệu USD. Như thế quân đội chỉ có thể tân trang với những bước nhỏ, và đó sẽ
là một quá trình lâu dài
Có thể sẽ là quá dài và
tai hại đối với những phát triển trên Biển Đông.
Vũ khí tối tân như máy
bay hoặc tàu chiến là những hệ thống kỹ thuật phức tạp và cần phải có sự đào
tạo và tập luyện lâu dài cho quân sĩ để sử dụng với kết quả tối đa trong trường
hợp giao chiến.
Các quân đội Tây Phương
thường lệ cần khoảng hai năm cho một hệ thống vũ khí mới như chiến hạm hoặt một
kiểu máy bay chiến đấu mới để đạt được trạng thái sẵn sàng chiến đấu
(operational readiness hay combat readiness).
Máy bay đã cũ trong các
biên đội của Không quân Việt Nam
Theo cách nhìn đó, trong
số những hệ thống vũ khí tinh vi nhất của hải quân Việt Nam - sáu chiếc tàu
ngầm và hai chiếc hộ tống hạm - có lẽ chỉ có một phần có thể được xem là 'sẵn
sàng chiến đấu' vì thời gian huấn luyện chưa đủ.
Và e rằng hai chiếc
chiến hạm thứ năm và thứ sáu của lớp Gepard Việt Nam định mua thêm sẽ đến trể
nếu chúng được đóng với vận tốc hiện tại.
Vậy phải làm gì để tạo
nên một khả năng ngăn cản đáng tin trong thời gian ngắn nhằm kềm chế những tham
vọng của Trung cộng?
Hiện đại hóa theo cách
nào?
Việt Nam phải ưu tiên
cho việc tân trang quân đội. Chi phí cho quốc phòng bắt buộc phải tăng thêm.
Tuy rằng từ 2015, theo
thống kê của viện nghiên cứu hòa bình SIPRI, Việt Nam đã lên hạng tư trong khối
ASEAN về ngân sách quốc phòng, nhưng thật ra chỉ hơn các quốc gia nghèo hơn như
Philippines, Myanmar, Lào...
Chi phí của Việt Nam cho
quốc phòng tính theo đầu người là khoảng 49 USD hàng năm, so với trung bình của
ASEAN là 388 USD thì đây còn rất nhiều khả năng để tiến lên.
Gia tăng đầu tư cho quốc
phòng - đó cũng là một sự đầu tư cho tương lai - là một việc. Việc khác là phải
chi tiền như thế nào để mau chóng có được một số đáng kể của những hệ thống vũ
khí tân tiến như đã nêu trên.
Túi tiền nhỏ, nhưng muốn
mua đồ mới đắt thì cuối cùng sẽ không đủ đồ sài. Việt Nam phải từ bỏ sự e ngại
đối với việc dùng vũ khí 'second-hand'.
Những tàu chiến hoặc máy
bay quân sự đã được các cường quốc Tây Phương, Nhật và thậm chí nước Nga sử
dụng thường được bán lại với một giá thấp hơn giá mới rất nhiều.
Như thế có thể mua được
một số đáng kể với một ngân sách khiêm nhường. Trong nhiều trường hợp, những hệ
thống vũ khí này còn tốt và chỉ cần tu sửa ít để tiếp tục sử dụng thêm một thời
gian lâu.
Nhiều quốc gia đã và
đang trang bị cho quân đội với vũ khí sài rồi. Thí dụ như Brazil và Argentine
đều có tàu chiến cũ của Anh Quốc và Hoa Kỳ hoặc máy bay chiến đấu của Pháp.
Chiếc hàng không mẫu hạm
Viraat hải quân Ấn Độ dùng đến 2016 là chiếc Hermes xưa của hải quân Anh Quốc.
Nhiều quốc gia Đông Âu như Ba Lan, Romania... đã mua chiến đấu cơ F-16 cũ của
Hoa Kỳ.
Một chiếc Y-20, máy bay
vận tải quân sự cỡ lớn do Trung cộng tự sản xuất
Quân đội Ba Lan cũng
thừa kế một số xe tăng Leopard của Đức. Hải quân Đại Hàn đã sử dụng chiến hạm
cũ của Hoa Kỳ. Những khu trục hạm mạnh nhất của Đài Loan là tàu thuộc lớp Kidd
của hải quân Mỹ...
Thị trường cho vũ khí
'second-hand' hiện tại cũng có nhiều thứ đáng chú ý cho Việt Nam. Thí dụ như
những máy bay thám sát và săn tàu ngầm P-3 Orion Nhật Bản đang muốn cho về hưu.
Không quân Hoa Kỳ có một
số lớn chiến đấu cơ F-16 sắp được thay thế bằng chiếc F-35.
Hải quân Úc đang chuẩn
bị loại ba chiếc hộ tống hạm hạng Adelaide. Hải quân Hoàng Gia Anh cũng đang có
ý định bán năm chiếc hộ tống hạm hạng Type 23.
Những tàu của Anh Quốc
và Úc tuy cũ nhưng vẫn có khả năng tác chiến vượt hẳn hạng Gepard của Việt Nam.
Từ khi Hoa Kỳ bỏ lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, những thiết bị
này đều là những thứ có thể nằm trong tầm tay của Việt Nam.
Mua vũ khí để tân trang
quân đội trong tình huống lãnh thổ bị đe dọa không phải là một hành động hiếu
chiến. Đằng khác một lập trường chính trị trung lập và hiếu hòa không đồng
nghiã là không được có một lực lượng vũ trang mạnh. Những quốc gia với truyền
thống trung lập bền vững nhất Âu Châu - Thụy Điển, Thụy Sĩ và Phần Lan - đều
nuôi một quân đội nhỏ nhưng tinh nhuệ và trang bị tối tân.
Chính sách quốc phòng
của các quốc gia này đều phản ảnh nhận xét của nhà chính trị Cicero thời đế
quốc La Mã 'Nếu muốn có hòa bình, phải chuẩn bị cho chiến tranh' (si vis pacem
para bellum).
Nếu quyết tâm bảo vệ
quyền lợi quốc gia và lãnh thổ, giới lãnh đạo chính trị và quân sự tại Việt Nam
phải nhanh chóng phát triển một chính sách quốc phòng thích nghi với những thử
thách trên Biển Đông và theo đó gấp rút thực hiện những biện pháp nhằm tân
trang cho quân đội.
Nguyễn Xuân Vĩnh
Virus-free. www.avast.com
|
__._,_.___
No comments:
Post a Comment