Trung
Quốc “quyết đấu” Mỹ ở Biển Đông, nguy cơ bùng nổ chiến tranh thế giới
Thứ ba, 05/07/2016,
06:00 (GMT+7)
(Quốc tế) - National Interest nhận
định, những gì đang diễn ra hiện nay là do Trung Quốc tin rằng đã trở nên đủ
sức mạnh đối trọng với Mỹ hoặc thậm chí vượt qua Mỹ để có thể triển khai sức
mạnh ở châu Á. Lịch sử đã chứng minh rằng nước nào có sức mạnh, nước ấy có
quyền lãnh đạo…
·
>>
Trực thăng cánh xoay V-22 Ưng biển cất cánh từ tàu sân bay Mỹ
Những cuộc đụng độ gần đây ở Biển Đông giữa lực lượng hải quân
Indonesia và cảnh sát biển Trung Quốc đã tăng cường mối quan tâm chung đối khu
vực. Một số hoan nghênh quyết tâm của Indonesia trong việc bảo vệ toàn vẹn lãnh
thổ trên biển. Tuy nhiên một số vẫn băn khoăn về động cơ của Trung Quốc trong
việc kích động xung đột khu vực như vậy với Việt Nam, Malaysia và Philippines.
Làm thế nào để giải thích tại sao Trung Quốc lại mạo hiểm dấn thân vào một cuộc
chiến lớn có thể kéo theo sự can dự của Mỹ vào việc tranh giành một nhúm đảo,
đá?
Một vài người cho rằng các nước đang tranh giành quyền kiểm
soát trữ lượng dầu mỏ và khí đốt ở những vùng biển này. Nhưng có vẻ điều đó
không đúng với trường hợp này. Nhìn chung trong lịch sử hiện đại, các nước lớn
hiếm khi đánh nhau trong một cuộc chiến lớn để tranh giành các nguồn lực kinh
tế. Hay phải chăng vì “đường chín đoạn” ngang ngược của Trung Quốc? Chắc chắn
cần phải phân biệt các cách thức, phương tiện và kết cục của các hiện tượng
này. “Đường lưỡi bò” là phương tiện mà Trung Quốc sử dụng để biện minh cho
những chính sách tối hậu của mình. Nhưng nó không giải thích được kết cục mà
Trung Quốc muốn đạt được, do đó nó không thể được sử dụng để lí giải cho động
cơ của Bắc Kinh ở Biển Đông.
Hãy nhìn lại thế chỉ XX. Chiến tranh thế giới thứ nhất bùng phát
khi đế quốc Áo-Hung tuyên chiến và tấn công Serbia. Vậy có phải cuộc xâm
lược của đế chế Áo – Hung gây nên Thế chiến I? Không phải như vậy. Đúng là đế
quốc Áo – Hung phát động chiến tranh nhưng chắc chắn đó không phải là nguyên
nhân của cuộc chiến. Nguyên nhân sâu xa của cuộc chiến này là mối quan tâm của
các nước lớn về trật tự khu vực thịnh hành ở châu Âu và mong muốn thay đổi nó.
Người Đức (cùng với đế chế Áo – Hung) không thoải mái với việc
thay đổi cân bằng quyền lực nghiêng về phía liên minh Pháp – Nga- Anh. Họ nhận
ra sự thống trị của nước Đức trong trật tự châu Âu bị xói mòn và tìm kiếm
phương cách để đảo ngược xu hướng này. Pháp và Nga được cổ súy bởi vị thế sức
mạnh mới đạt được, đã từng bị nhục mà trong trật tự do Đức dẫn đầu trước đó và
đã tìm cách để trừng phạt Đức cùng các đồng minh của nước này.
Tương tự như Thế chiến I, Thế chiến II cũng khởi nguồn với cuộc
xâm lược Ba Lan của Hitle. Tuy nhiên, Ba Lan không phải là nguyên nhân sâu xa
của sự kình địch giữa Anh- Pháp và Đức dẫn đến leo thang thành chiến tranh năm
1939. Mà là thực trạng Anh – Pháp lo lắng về sự chuyển dịch cân bằng
quyền lực theo hướng có lợi cho Đức và tìm cách ngăn chặn xu thế này phát triển
xa hơn. Quyết tâm đó cuối cùng đã dẫn đến cuộc chiến vượt qua sự tồn vong của
Ba Lan.
Theo National Interees, đơn giản có điểm chung giữa Serbia và Ba
Lan trước đây với biển Hoa Đông và Biển Đông hiện nay là chúng đều là sân khấu
cạnh tranh siêu cường. Nhưng chúng hoàn toàn không phải là nguyên nhân của sự
kình địch đó.
Chiến đấu cơ J-15 thử nghiêm trên tàu sân bay Liêu Ninh của Trung
Quốc. Nước này có kế hoạch tự đóng thêm hai tàu sân bay dựa trên thiết kế của
tàu Liêu Ninh
Để hiểu nguyên nhân của cuộc cạnh tranh Trung – Mỹ cần phải xem
xét lại lịch sử và bức tranh chiến lược của khu vực châu Á, hay đơn giản hơn là
trên Biển Đông. Sau thất bại của Đế quốc Nhật trong Thế chiến II, Mỹ là siêu
cường duy nhất có thể triển khai sức mạnh trong khu vực. Kể từ đó, châu Á luôn
nằm dưới trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu. Chỉ bằng một phần nhỏ so với sức mạnh
của Mỹ, các nước khác trong khu vực đều chấp nhận vị thế bá chủ của Mỹ.
National Interest nhận định, những gì đang diễn ra hiện nay là do
Trung Quốc tin rằng đã trở nên đủ sức mạnh đối trọng với Mỹ hoặc thậm chí vượt
qua Mỹ để có thể triển khai sức mạnh ở châu Á. Lịch sử đã chứng minh rằng nước
nào có sức mạnh, nước ấy có quyền lãnh đạo. Và với sức mạnh mới đạt được, Trung
Quốc muốn có vai trò lãnh đạo lớn hơn trong khu vực. Chắc chắn, bất kỳ ai khi
nghiên cứu lịch sử một cách cẩn thận sẽ đều thừa nhận rằng đây là một điều hết
sức bình thường.
Nhà lãnh đạo Singapore Lý Quang Diệu đã từng nhấn mạnh rằng Trung
Quốc đã thiết lập tầm nhìn của mình về việc thay thế Mỹ trở thành siêu cường
nổi trội quyết định trật tự ở châu Á. Tham vọng của Trung Quốc với quyền lãnh
đạo cao hơn trong khu vực thật không may lại gặp phải những thách thức gay gắt
từ phía Mỹ cũng như các nước lớn khác trong khu vực như Nhật Bản và Ấn Độ.
Sau những tuyên bố chủ quyền ngày càng gia tăng của Trung Quốc, Mỹ
đã cho ra đời chính sách “xoay trục châu Á” (về sau được đổi tên là “tái cân
bằng”). Trong khi đồng minh của Mỹ là Nhật Bản đã diễn giải hiến pháp, cho phép
Tokyo chủ động hơn cả về chính trị lẫn quân sự ở bên ngoài lãnh thổ. Ấn Độ về
phần mình cho ra đời chính sách hướng Đông trong khi cố gắng để củng cố sức
mạnh hàng hải để ngăn chặn sự xâm nhập của Trung Quốc vào Ấn Độ Dương.
Đối mặt với nguy cơ ngăn chặn, câu hỏi hết sức quan trọng đối với
lãnh đạo Trung Quốc là làm thế nào để Trung Quốc có thể hất cẳng Mỹ và trật tự
khu vực do Mỹ dẫn đầu khỏi châu Á?
Trung Quốc có vẻ tin rằng trật tự khu vực do Mỹ dẫn đầu dựa trên
trật tự an ninh chính trị khu vực do nước này tạo ra. Trật tự an ninh chính trị
này lại dựa vào hệ thống đồng minh khu vực của Mỹ bao gồm Nhật Bản, Hàn Quốc,
Úc, Philippines và Thái Lan. Hệ thống liên minh này cho phép Mỹ tiếp cận các
căn cứ tiền đồn, đảm bảo cho Mỹ khả năng nhanh chóng triển khai sức mạnh trong
khu vực bất cứ khi nào có khủng hoảng nổ ra.
Không có những căn cứ như vậy, Mỹ sẽ không thể triển khai lực
lượng một cách hiệu quả, và do đó sẽ chỉ có ảnh hưởng bên lề trong một cuộc
khủng hoảng. Việc giảm bớt khả năng đối phó của Mỹ đối với một cuộc khủng hoảng
khu vực đồng nghĩa với việc giảm đi rất nhiều ảnh hưởng của Mỹ đối với trật tự
khu vực.
Theo logic, phá vỡ hệ thống liên minh này sẽ dẫn tới sự đổ vỡ trật
tự khu vực do Mỹ lãnh đạo. Câu hỏi hiện nay là làm sao Trung Quốc có thể phá vỡ
hệ thống liên minh này?
Theo National Interest, liên minh về bản chất là một sự đảm bảo.
Bằng việc ký kết một liên minh, Mỹ đã bảo đảm với đồng minh của mình rằng nước
này sẽ giúp họ bảo vệ đất nước trong các cuộc khủng hoảng. Giống như một công
ty bảo hiểm thương mại, sự thành công của việc kinh doanh phụ thuộc vào mức độ
tín nhiệm của công ty. Miễn là các đồng minh của Mỹ tin rằng Mỹ sẽ thực hiện
lời hứa của mình, hệ thống liên minh này sẽ được duy trì. Tuy nhiên nếu các
đồng minh của Mỹ không tin vào những lời hứa, nghi ngờ vào độ tin cậy của những
lời nói này thì hệ thống liên minh sẽ bị phá vỡ.
Hệ quả lại nảy sinh một câu hỏi mới: Làm thế nào để Trung Quốc có
thể hủy hoại tín nhiệm của Mỹ đến mức mà có thể dẫn tới sự phá vỡ hệ thống liên
minh khu vực? Chắc chắn không có cách nào tốt hơn là làm giảm độ tin cậy của
một ai đó hơn là chứng tỏ rằng ai đó không đủ khả năng để thực hiện lời hứa.
Nói một cách khác, Trung Quốc phải chỉ ra cho các đồng minh của Mỹ thấy rằng Mỹ
sẽ không ở bên khi họ cần. Điều đó có nghĩa là phải kích động một cuộc xung đột
với các đồng minh của Mỹ, đảm bảo rằng các nước này sẽ kêu gọi sự hỗ trợ từ Mỹ
và cùng lúc đó đảm bảo rằng Mỹ sẽ không thực hiện chính sách bảo hiểm của mình.
Đây là một trò chơi nguy hiểm. Trung Quốc phải nỗ lực hết sức để
đảm bảo rằng Mỹ sẽ không ủng hộ đồng minh của mình. Nếu không, Trung Quốc sẽ
phải đối mặt với một cuộc chiến với Mỹ – một tình huống nghiệt ngã cho cả hai bên
khi cả hai đều sở hữu vũ khí hạt nhân, National Interest cảnh báo.
(Theo Viettimes)
__._,_.___
No comments:
Post a Comment