Thursday, 21 May 2015

Bang Giao Việt-Mỹ 1995-2015

Bang Giao Việt-Mỹ 1995-2015

Từ năm 1991 cho tới ngày hôm nay, liên hệ song phương Việt-Mỹ được đánh dấu bởi những sự kiện như sau:
-Tháng 4, 1991: Tổng Thống George Bush đề nghị với Việt Nam “lộ trình” (Road Map) từng bước bình thường hóa quan hệ.
-Tháng 12, 1991: Washington dỡ bỏ lệnh cấm việc đi lại có tổ chức từ Hoa Kỳ tới Việt Nam. Quốc Hội Hoa Kỳ ủy quyền cho Cơ quan Thông Tin Hoa Kỳ (USIA) bắt đầu trao đổi các chương trình với Việt Nam.
-Ngày 3/3/1993: Tổng thống Clinton dỡ bỏ lệnh cấm vận thương mại đối với Việt Nam.
-Ngày 28 tháng 1, 1995:  Hoa Kỳ và Việt Nam chính thức ký hiệp định giải quyết các vấn đề về bồi thường và thiết lập Văn Phòng Liên Lạc tại thủ đô của mỗi nước.
-Ngày 11/7/1995: Tổng thống Mỹ Bill Clinton và Thủ tướng Việt Nam Võ Văn Kiệt tuyên bố bình thường hóa quan hệ ngoại giao giữa hai quốc gia.
-Ngày 6/8/1995: Ngoại Trưởng Warren Christopher thăm Hà Nội và chính thức mở tòa đại sứ tại Việt Nam. Việt Nam cũng mở tòa đại sứ tại Washington D.C.
-Ngày 7/10/1995- Cựu Bộ trưởng Quốc phòng Robert S. McNamara thăm Việt Nam.
-Ngày10/ 4/1997:  Ô. Pete Peterson, cựu chiến binh trong chiến tranh Việt Nam, đồng thời là cựu tù binh chiến tranh (POW), làm đại sứ đầu tiên của Mỹ tại Việt Nam sau 1975.
-Ngày 24/6/1997:  Vị ngoại trưởng thứ hai của Mỹ là Bà Madeline Albright thăm Việt Nam.
-Tháng 8/1997: Chính phủ Hoa Kỳ thông qua quy chế đặc biệt cho phép Cơ Quan Phát Triển Quốc Tế Hoa Kỳ (USAID) hỗ trợ Việt Nam cải thiện hoạt động thương mại thông qua chương trình hỗ trợ kỹ thuật về luật thương mại và chính sách thương mại. 
- Ngày 11 tháng 3/1998: Tổng Thống Bill Clinton ban hành quy chế tạm miễn áp dụng đạo luật sửa đổi bổ sung Jackson - Vanik đối với Việt Nam, mở đường cho hoạt động của nhiều công ty Mỹ tới đầu tư và làm ăn buôn bán tại Việt Nam.
-Ngày 13/ 3/2000:  Bộ Trưởng Quốc Phòng đầu tiên của Mỹ William Cohen thăm Việt Nam kể từ khi chiến tranh kết thúc.
-Ngày 16/11/2000: Tổng Thống Bill Clinton  thăm Việt Nam trong bốn ngày.

-Ngày 24/ 7/2001: Ngoại Trưởng Mỹ Colin Powell thăm Việt Nam trong ba ngày đồng thới tham dự Diễn Đàn Khu Vực ASEAN tại Hà Nội. Đây là vị ngoại trưởng thứ ba của Mỹ thăm Việt Nam.
- Ngày 10 /11/2003: Bộ Trưởng Quốc Phòng Việt Nam Phạm Văn Trà thăm Hoa Kỳ để thảo luận về hợp tác thúc đẩy an ninh khu vực.

-Ngày15/ 9/2004 – Việt Nam bị xếp vào danh sách các quốc gia cần quan tâm đặc biệt (Country of  Particular Concern) theo Đạo Tuật Tự Do Tôn Giáo của Hoa Kỳ.
-Ngày 19-24 tháng 6/2005: Thủ tướng Việt Nam Phan Văn Khải hội kiến Tổng Thống George W. Bush tại Thủ Đô Hoa Thịnh Đốn.
-Ngày 21/ 4/2006: Chủ Tịch Hạ Viện Hoa Kỳ Dennis Hastert thăm Việt Nam.
-Ngày 14/5/2006: Hoa Kỳ và Việt Nam đạt được sự  thỏa thuận trên nguyên tắc về việc Việt Nam gia nhập WTO.
-Ngày 04/6/2006 – Bộ Trưởng Quốc Phòng Donald Rumsfeld thăm Việt Nam để bàn về các phương thức mở rộng hợp tác quốc phòng. Đây là vị bộ trưởng quốc phòng thứ hai của Mỹ thăm Việt Nam.
-Ngày 07/1/2006: – Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) chính thức mời Việt Nam trở thành hội viên của tổ chức này.
- Ngày 11/1/2007: Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO.

-Ngày 08/4/2007: Trong chuyến viếng thămViệt Nam ba ngày, Ô. Bill Gates - Chủ Tịch Microsoft và phu nhân Melinda gặp gỡ Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam để thảo luận về vấn đề cải thiện sức khỏe của trẻ em.


-Ngày 3/ 4/2008: Đại sứ Hoa Kỳ Micheal W. Michalak cắt băng khánh thành Trung Tâm Hoa Kỳ đầu tiên tại Hà Nội, được coi như văn phòng “một cửa”, nơi cung cấp tất cả các thông tin cập nhật về mọi lĩnh vực liên quan đến nước Mỹ.
-Ngày 23-26 tháng 6/2008: Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng của Việt Nam thăm Hoa Kỳ theo lời mời của Tổng Thống George W. Bush.
-Ngày 6/ 4/2009: Thượng Nghị Sĩ John McCain đến Hà Nội và có các cuộc hội đàm với Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Chủ Tịch Quốc Hội Nguyễn Phú Trọng của Việt Nam.
(Kết thúc tài liệu của Tòa Đại Sứ Hoa Kỳ tại Hà Nội)

-Ngày 10/7/2012: Ngoại Trưởng Hoa Kỳ Hillary Clinton thăm Việt Nam. Đây là vị ngoại trưởng thứ tư của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 25/7/2013: Việt Nam và Hoa Kỳ tuyên bố hợp tác toàn diện.(Comprehensive Partnership)
-Ngày 03/06/2013 Bộ Trưởng Quốc Phòng Hoa Kỳ Leon Panetta thăm Việt Nam. Đây là vị bộ trưởng quốc phòng thứ ba của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 18/12/2013: Ngoại Trưởng John Kerry thăm Việt Nam. Đây là vị ngoại trưởng thứ năm của Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
-Ngày 13/8/2014: Tướng Martin Dempsey- Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ thăm Việt Nam.
 -Ngày 2/10/2014: Mỹ tuyên bố tháo gỡ một phần lệnh cấm bán vũ khí sát thương cho Việt Nam, nhưng chưa thấy một thỏa hiệp mua bán vũ khí nào dủ Tướng Nguyễn Chí Vịnh đã thăm Hoa Kỳ và các đại công ty sản xuất vũ khi Mỹ đã tới thăm Việt Nam.
-Ngày 6/2/2015 Mỹ tuyên bố giao 5 tàu tuần duyên cho Việt Nam.
-Tháng 4, 2015: Hai bên có thể đang thương thảo về vấn đề tập trận chung trên biển với chuyến thăm của Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ Ray Mabus ngày 9/4/2015.
-Chuyện gì sẽ tiếp diễn?
* * *
Bốn mươi năm đã qua, từ cựu thù tới dò dẫm, từng bước Hoa Kỳ đã trở lại Việt Nam trong tư thế của một người “Hợp Tác Toàn Diện”. Hình ảnh chiến tranh 1945-1975 (1) nay chỉ còn có giá trị lịch sử, kỷ niệm và rút tỉa kinh nghiệm. Do tình hình thế giới thay đối, từ cựu thù trở thành đồng minh là chuyện rất thường tình như Mỹ với Nhật chẳng hạn. Không một ai có thể cứ sống mãi với dĩ vãng nhất là một quốc gia. Chuyện Hoa Kỳ bình thường hóa ngoại giao với Cuba cho thấy Hoa Kỳ không thể cứ giữ mãi lập trường thù nghịch với một đảo quốc nhỏ bé, không có khả năng “đụng tới sợi lông chân” Hoa Kỳ và trước sự phản đối của toàn thế giới.
 Ngay từ đầu năm 1990, dưới sức ép của dư luận, các nhà nghiên cứu chiến lược lúc bấy giờ cho rằng nếu Mỹ không vào Việt Nam thì sẽ là “trâu chậm uống nước đục”. Việc Hoa Lục xây dựng xong các căn cứ quân sự khổng lồ ở Đảo Hải Nam năm 1990 khiến Hoa Kỳ giật mình, hối hả lên kết hoạch trở lại Đông Nam Á mà Hoa Kỳ đã “tháo chạy” mặc cho Trung Quốc tung hoành từ năm 1974 (năm mất Quần Đảo Hoàng Sa) nhất là dưới thời Tổng Thống Bill Clinton.
 Lúc bấy giờ ở Mỹ, người ta ca ngợi tài ba của Ô. Đặng Tiêu Bình và sự thành công của nước Trung Hoa như một phép lạ và là niềm hân hoan của Hiệp Chủng Quốc Hoa Kỳ với kim nghạch ngoại thương giữa hai nước lên tới 550 tỉ Mỹ Kim mỗi năm. Rồi đây khi Trung Hoa gia nhập cộng đồng thế giới và “tư bản hóa” thì …thiên hạ thái bình. Nhưng có ngờ đâu Minh Ước Thượng Hải 1972 ký kết giữa Mao Trạch Đông và cặp bài trùng Nixon/Kissinger rồi được triển khai mạnh mẽ dưới thời Ô. Bush Cha và Ô. Bill Clinton -  nay trở thành thảm họa cho Hoa Kỳ.
Trước sức trỗi dậy kinh khủng của Hoa Lục, nếu muốn kiềm chế thì Mỹ phải trở lại Đông Nam Á vì con đường tiến ra Thái Bình Dương của Hoa Lục phải qua cửa ngõ Đông Nam Á- mà Việt Nam là “cửa ải” đầu tiên. Nhưng Mỹ trở lại Đông Nam Á bằng cách nào đây?
Trở lại Đông Nam Á mà không có Việt Nam thì cũng như không bởi vì Việt Nam là trọng điểm chiến lược. Trở lại Việt Nam không những quân bình được ảnh hưởng của Hoa Lục mà còn cả của Nga. Dĩ nhiên Mỹ không thể trở lại Việt Nam theo kiểu cho thùy quân lục chiến đổ bộ vào Đà Nẵng như dưới thời Tổng Thống Johnson.

Lúc bấy giờ vì Việt Nam còn e ngại và do dự cho nên Hoa Kỳ cần kiên nhẫn. Về điểm này chúng ta phải công nhận Hoa Kỳ rất khéo léo. Giống như một cậu thanh niên muốn làm quen với một cô gái thì cũng phải dẫn cô ấy đi ăn nhà hàng, tặng quà liên miên rồi hai bên khi đã “tâm đầu ý hợp” rồi mới tính chuyện. Chứ xớn xác chưa có gì cả mà đã “nhào vô” thì chắc chắn thất bại. Do ưu thế gần như tuyệt đối về mặt kinh tế lẫn tài chính, nhìn vào thời biểu của mối bang giao, chúng ta thấy từng bước Hoa Kỳ đã tháo gỡ lệnh cấm vận, hủy bỏ bớt những ngăn cấm về luật lệ, giúp Việt Nam giao dịch với thị trường Mỹ, hội nhập vào cộng đồng thế giới, rồi vào WTO và sẽ vào TPP do Hoa Kỳ lãnh đạo…điều mà Việt Nam rất cần cho kế hoạch “Đổi Mới” để sinh tồn. Rồi từ những hợp tác về giáo dục, kinh tế, tài chính, ngoại thương, năng lượng, đầu tư, hai bên đã công khai tiến tới hợp tác quốc phỏng thông qua hiệp định “Hợp Tác Toàn Diện”.
Tuy nhiên Hoa Kỳ và cả thế giới đều thấy mối bang giao Việt-Mỹ vô cùng phức tạp vì những nhân tố sau đây:

-Hoa Kỳ và Trung Quốc đang là “Hợp Tác Chiến Lược” gắn bó về kinh tế gần như “vợ chồng” cho nên Hoa Kỳ chỉ “tái cân bằng lực lượng” chứ chưa muốn hoặc chưa dám đụng độ về quân sự với Hoa Lục ở Biển Đông. Do đó mọi chuyển động ngoại giao Việt-Mỹ, cả hai đều phải thăm dò phản ứng của Trung Quốc. Trong thâm tâm cả Việt lẫn Mỹ đều không muốn tiến xa tới mức độ “chọc giận” Hoa Lục. Chẳng hạn, Hoa Kỳ không thể có căn cứ quân sự tại Việt Nam bởi một hành động như thế cũng là hình thức tuyên chiến với Hoa Lục. Cho nên, theo tôi, trong tinh thế hiện tại “Hợp Tác Toàn Diện” thì cũng giống hệt như “Hợp Tác Chiến Lược” nhưng nghe có vẻ hòa bình, nhẹ nhàng và không gây lo sợ hoặc chọc giận Trung Quốc.

-Vì Việt Nam có chung biên giới với Trung Quốc và cùng chung ý thức hệ chính trị, cho nên nếu có bang giao với Hoa Kỳ thì chỉ giới hạn ở mức độ “tự vệ” chứ Việt Nam không thể liên kết với Mỹ để trở thành mũi nhọn tấn công Trung Quốc hoặc mối nguy về an ninh cho Trung Quốc. Cho nên đứng về mặt lý luận, căn cứ trên thực tiễn mà nói: Nếu Hoa Kỳ đóng quân tại 8 căn cứ nhìn ra Biển Đông của Phi Luật Tân thì trận thư hùng giữa Trung Quốc và Mỹ sẽ nổ ra tại Phi Luật Tân chứ không phải ở Việt Nam. Hiện tại, dù hợp tác với Mỹ hay với Nga, Việt Nam chưa phải là mối đe dọa về an ninh cho Trung Quốc. Việt Nam không phải là “mũi nhọn của Mỹ” để thọc vào cạnh sườn Trung Quốc, giống như Ukraina là mũi nhọn của NATO đâm vào yết hầu Nga.

-Vì Việt Nam có liên hệ truyền thống với Nga và nhờ Nga mà Việt Nam có đầy đủ vũ khí để tự vệ cho nên Việt Nam - trong mối bang giao với Mỹ phải tính toán như thế nào để không tổn thương tới quan hệ với Nga và quan hệ Việt-Nga cũng không làm tổn thương tới quan hệ Việt-Mỹ. Đây là chuyện khó khăn và vô cùng nhức đầu, vô cùng tế nhị chứ không phải chuyện chơi. Chẳng hạn vừa rồi Mỹ đã chính thức phản đối Việt Nam đã cho phép các máy bay của Nga được xử dụng Cảng Cam Ranh để nhận dầu rồi tiếp dầu cho những máy bay ném bom chiến lược tầm xa của Nga xuất hiện gần không phận Guam của Mỹ.
Sách lược ngoại giao của Việt Nam vô cùng khó khăn vì ba siêu cường Nga-Mỹ-Trung Quốc thù nghịch với nhau, đang cùng tranh giành ảnh hưởng ở Việt Nam. Chiến lược ngoại giao để giữ yên đất nước mà không làm buồn lòng các đại cường - có thể là phức tạp nhất thế giới hiện nay. Chính vì thế mà Tướng Dempsey- Tham Mưu Trưởng Liên Quân Hoa Kỳ trong chuyến thăm viếng Việt Nam, khi phóng viên New York Times hỏi về vị trí của Việt Nam trên trường quốc tế, đã trả lời như sau: Tôi không thể không đồng ý về tầm quan trọng và vị thế đặc biệt của Việt Nam đối với khu vực và toàn cầu trong tương lai. Theo tôi, Việt Nam sẽ đóng một vai trò địa chính trị cực kỳ quan trọng trong khu vực và trên thế giới trong những năm tới. ”
Trong lịch sử 4000 năm, chưa bao giờ Việt Nam trải qua một thời kỳ khó khăn đến như vậy. Tuynhiên theo nhận định lạc quan của cựu Đại Sứ Pete Peterson (VOA) thì,  “Giữa lúc đôi bên năm nay (2015) kỷ niệm hai thập niên bình thường hóa quan hệ, vị sứ giả có công hàn gắn bang giao hai nước cựu thù cũng dự đoán rằng trong 20 năm kế tiếp, chắc chắc Việt-Mỹ sẽ trở thành đồng minh mạnh mẽ ở Đông Nam Á.”
Và Ô. Pete Peterson cũng phải công nhận rằng, “Hoa Kỳ không (ngấm) ngầm muốn thay đổi ý thức hệ trong lòng Việt Nam, một trong những yếu tố được xem là thách thức lớn nhất cho quan hệ song phương kể từ khi chiến tranh kết thúc năm 1975 tới nay.
Ô. Pete Peterson nhận định đúng. Nếu phía Việt Nam phác giác ra Hoa Kỳ lợi dụng mối bang giao để tìm cách lật đổ họ thì mối quan hệ đổ vỡ ngay lập tức. Mà Việt Nam sẵn sàng làm như vậy vì ở vào thời điểm này dù có cắt đứt quan hệ ngoại giao với Hoa Kỳ họ vẫn không chết. Nhật Bản, Âu Châu, Ấn Độ và nhất là Nga vì quyền lợi của mỗi nước cũng sẽ tiếp tục trợ giúp Việt Nam và khi đó Hoa Kỳ trở nên cô lập. Dĩ nhiên cả Hoa Kỳ và Việt Nam đều không muốn tình thế đó xảy ra vì chẳng có lợi gì cho hai bên trong khi hiểm họa Trung Quốc sờ sờ ra đó.
Hoa Kỳ nổi tiếng và dạy dỗ cả nhân loại về tình thần “thực tiễn” tức “quyền lợi là trên hết” trong khi họ lại luôn luôn đề cao “lý tưởng”. Mà hễ đã lý tưởng thì không thể thực tiễn…cho nên Hoa Kỳ chơi trò chơi “Hai Mặt” (Double Standard) - tức chỗ nào cần “lý tưởng” thì nói “lý tưởng”, chỗ nào “vì quyền lợi” thì quẳng “lý tưởng” đi. Cho nên “đi” với Hoa Kỳ rất khó. Khi nào vì quyền lợi thì - sống chết Hoa Kỳ cũng nhào vô. Khi nào không còn quyền lợi thì Hoa Kỳ giở “lý tưởng” ra để sinh sự. Cho nên ngoại giao với Hoa Kỳ phải “biết” như cái “biết” của Lão Tử, nếu không sẽ “chết không kịp ngáp”.
Kinh nghiệm thực tế, ít nhất 40 năm qua, sau Chiến Tranh Việt Nam đã dạy cả thế giới một bải học là nếu đi với Mỹ thì phải đi với một đại cường khác để cân bằng ảnh hưởng của Mỹ. Nếu chỉ ôm một trụ Mỹ, khi Mỹ bỏ hoặc o ép, không chết thì cũng mất hết chủ quyền. Các quốc gia Đông Nam Á như Nam Dương, Mã Lai, Thái Lan, Miến Điện và Việt Nam đã học được bài học này cho nên họ theo chính sách ngoại giao đa phương để không bị lệ thuộc vào bất cứ siêu cường nào.
Hiện nay, qua chuyến công du Hoa Kỳ của Thủ Tướng Abe, chúng ta thấy Nhật Bản tim chỗ dựa mạnh mẽ hơn nữa vào Mỹ để đối đầu với Trung Quốc. Trước mắt đó là một bảo đảm an ninh, nhưng chắc chắn chính sách đối ngoại lớn của Nhật Bản sẽ bị Hoa Kỳ kiềm chế, chẳng hạn Nhật Bản không thể có mối giao hảo với Nga- hiện đương là kẻ thù của Mỹ- hoặc bất cứ quốc gia nào mà Mỹ coi như thù nghịch.
Khi bạn bị một người nào đó sai bảo, “Mày không được chơi với người này. Mày không được chơi với người kia.” thì người đó là cha mẹ của bạn hoặc là “boss hay chef” của bạn.
Đào Văn Bình
(California ngày 20/5/2015 )


Cước chú:
(1)   Thực ra Mỹ đã can dự vào “Chiến Tranh Việt Nam” từ năm 1946 khi hỗ trợ cho Thực Dân Pháp tái chiếm Đông Dương. Cho tới khi Pháp thất bại hoàn toàn thì Mỹ đã viện trợ trên 1 tỷ USD mỗi năm (tương đương khoảng 5.8 tỷ USD theo thời giá năm 2004) tức 78% của toàn bộ chi phí chiến tranh của Pháp ở Đông Dương.Các cố vấn Mỹ có thể thanh tra các doanh trại, căn cứ quân sự của Pháp mà không cần báo trước. (Tài liệu Wikipedia & Vietnam: A History& Các phim tài liệu của Mỹ)
Dưới đây là hình ảnh của mối bang giao Việt-Mỹ theo sự tường trình của Ô. Christopher R Hill năm 2008 như một tài liệu tham khảo.
           
Christopher R. Hill, Thứ Trưởng Ngọai Giao Đặc Trách Đông Á và Thái Bình Dương Sự Vụ
Ủy Ban Ngọai Giao Thượng Nghị Viện Hoa Kỳ
Ngày 12, Tháng Ba 2008

Mở Đầu:
Trân trọng cám ơn bà TNS Boxer chủ tịch, TNS Murkowki và quý vị trong tiểu ban đã cho phép tôi được điều trần về Mối Liên Hệ Song Phương Mỹ- Việt. Tôi mới vừa từ Việt Nam về và rất  vui mừng được dịp chia xẻ cùng quý vị những cảm nghĩ của tôi về Việt Nam
Mối liên hệ Mỹ-Việt đã phát triển một cách  sâu rộng trong một số lãnh vực kể từ khi chúng ta tái lập bang giao với Việt Nam năm 1995. Chuyến công du của TT. Bush tới Hà Nội năm 2006 để tham dự Hội Nghị Hợp Tác Kinh Tế Châu Á-Thái Bình Dương (APEC) và chuyến viếng thăm Hoa Thịnh Đốn của chủ tịch Nguyễn Minh Triết vào Tháng 6, 2007 đã phản ảnh những bước tiến bộ trong mối quan hệ của chúng ta. Tuy nhiên vẫn còn tồn tại nhiều khó khăn, đặc biệt là lãnh vực nhân quyền. Nói chung, chúng ta đã thực hiện được những tiến bộ rộng lớn trong những vấn đề hai bên cùng có chung quyền lợi cũng như khả năng của chúng ta can dự một cách thẳng thắn vào những vấn đề mà hai bên có những khác biệt. Tiếp tục can dự và cùng chung giải quyết với Việt Nam hiển nhiên là mối quan tâm của chúng ta.

Những Liên Hệ Song Phương: Từ Đối Đầu Tới Hợp Tác
            Bước khởi đầu tốt nhất để duyệt lại quá trình mở ra mối bang giao giữa hai quốc gia là nhìn vào sự chuyển đổi mạnh mẽ của quốc gia Việt Nam. Khi chúng ta bắt đầu tái can dự (re-engaging) vào Việt Nam những năm 1990, sứ sở này mới vừa ra khỏi những năm còn cuồng nhiệt với chủ nghĩa Mác. Những năm tháng đó đã tàn phá nền kinh tế vẫn còn lảo đảo vì chiến tranh, xô đẩy hằng trăm ngàn người vào các trại cải tạo hoặc trốn chạy sang Hoa Kỳ hay vào các quốc gia khác. Chính sách ngọai giao của Việt Nam lúc bấy giờ là liên kết chặt chẽ với Liên-Sô, và cũng vừa chấm dứt một thập niên chiếm đóng Cambodia.Các nhà lãnh đạo Việt Nam đã đảo ngược con đường đi vào ngõ cụt này vào cuối thập niên 1980 bằng chính sách “Đổi Mới” để thúc đẩy kinh tế. Họ từ bỏ con đường họach định trung ương mà thiên về những nỗ lực thúc đẩy khu vực tư nhân. Các nhà lãnh đạo Việt Nam thấy rằng họ phải gia nhập vào kinh tế thế giới để lôi cuốn thương mại quốc tế, đầu tư và kỹ thuật. Kết quả là, cuộc đổi thay này đã tạo ra một cuộc cách mạng về kinh tế nhanh chóng nhất trong lịch sử cận đại. Hoa Kỳ đã khích lệ hướng đi mới này và đã tích cực giúp đỡ những đổi thay tại Việt Nam trong hơn một thập niên, qua những trợ giúp về phát triển và chính sách thương mại.

            Nếu Việt Nam có thể tiến hành một cách hữu hiệu cải tổ kinh tế thị trường hơn nữa, họ có tiềm năng theo kịp những Con Rồng Á Châu. Tổng Sản Lượng Quốc Gia (GDP) tăng 8.5 % trong năm 2007 đó là mức gia tăng cao nhất trong thập niên. Giới trung lưu đô thị cũng đã gia tăng và thị trường bán lẻ cũng mở rộng. Ngân Hàng Thế Giới (World Bank) đã mô tả đây là chiến dịch chống nghèo đói (xóa đói giảm nghèo) thành công nhất. Việt Nam đã giảm con số nghèo đói từ ¾ dân số xuống còn 14% năm 2007. Để thành công trong tham vọng trở thành một quốc gia kỹ nghệ vào năm 2020, Việt Nam còn phải làm nhiều hơn nữa để phát triển hạ tầng cơ sở vật chất lẫn nhân sự, bao gồm cả việc giải quyết những khiếm khuyết nghiêm trọng trong hệ thống giáo dục.

            Việt Nam đang mau chóng hội nhập vào thế giới. Quốc gia này đang gia tăng ảnh hưởng trong Hiệp Hội Các Quốc Gia Đông Nam Á (ASEAN), Diễn Đàn Hợp Tác Kinh Tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), tham gia vào Tổ Chức Thương Mại Thế Giới (WTO) Tháng 1, 2007. Tháng Giêng năm nay, Việt Nam gia nhập Hội Đồng Bảo An LHQ nhiệm kỳ hai năm. Chúng ta làm việc chặt chẽ với Việt Nam trong Hội Đồng này và củng cố  sự hợp tác với Việt Nam trong diễn đàn quốc tế quan trọng này trong hai năm tới.

            Xây dựng trên những hứa hẹn từ Thỏa Hiệp Thương Mại Song Phương (BTA) 2001 (US-Vietnam Bilateral Trade Agreement) chúng ta đã và đang tiếp tục mở rộng quan hệ kinh tế qua những gia tăng lớn lao về  thương mại và đầu tư. Vào cuối năm  2006, Việt Nam đã được ban cấp Quy Chế Thương Mại Thường Trực với Hoa Kỳ (Permanent Normal Trade Relations). Rồi từ đó Việt Nam gia nhập WTO vào Tháng Giêng 2007 với lợi ích cho hai quốc gia. Vào Tháng Sáu 2007, Hoa Kỳ và Việt Nam đã chung kết Thỏa Hiệp Chỉ Đạo Về Thương Mại và Đầu Tư (TIFA- Trade and Investment Framework Agreement) để giúp cho việc thi hành Quy Chế Thương Mại Bình Thường cũng như những cam kết của Việt Nam khi gia nhập WTO và cũng để xác nhận những cơ hội mới để thúc đẩy những quan hệ về thương mại và đầu tư. Sự tiếp cận của Việt Nam với WTO đã giúp thúc đẩy thương mại hai chiều là 12.5 tỉ trong năm 2007- tức gia tăng 29% so với năm 2006. Trong khi cán cân thương mại lệch về phía Việt Nam, nhưng xuất cảng của Hoa Kỳ sang Việt Nam gia tăng 73% trong năm 2007, nhanh gấp ba lần số xuất cảng của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Như chủ tịch Triết xác nhận trong chuyến viếng thăm Hoa Kỳ vào Tháng 6, Việt Nam hoan nghênh số đầu từ hơn nữa từ Hoa Kỳ. Bộ Trưởng Thương Mại Gutirrez đã hướng dẫn giám đốc điều hành của 22 công ty lớn của Hoa Kỳ tới Việt Nam vào Tháng 11, 2007 để thương thảo và gia tăng xuất cảng.

            Sự trợ giúp của Hoa Kỳ cho Việt Nam để cải tổ kinh tế tập trung vào sự quản trị tốt và trong sáng hầu làm dễ dàng cho mối liên hệ thương mại và đầu tư của chúng ta. Qua những dự án viện trợ như Trợ Giúp Thúc Đẩy Thương Mại - Support for Trade Acceleration (STAR), chúng ta giúp ý kiến và cố vấn cho hằng lọat các luật lệ mới liên quan đến việc thi hành Thỏa Hiệp Thương Mại Song Phương (BTA) và những cam kết khi vào WTO. Những nỗ lực này giúp chuyển đổi nền kinh tế Việt Nam bằng cách xúc tiến một mức độ cho lãnh vực tư nhân, bao gồm cả cả các công ty trong nước và ngọai quốc. Cùng xu hướng đó, viện trợ Mỹ dành cho chương trình Việt Nam Tự Lập Cạnh Tranh (Vietnam Competetiveness Initiative) thiết lập một chỉ số xếp hạng mỗi tỉnh trong việc dễ dàng làm thương mại, dựa trên nhãn quan của chính các công ty Việt Nam. Nhà cầm quyền Việt Nam đang xử dụng phương tiện này để khích lệ sự trong sáng hơn và các biện pháp chống tham nhũng tại cấp địa phương.
            Kết quả là các công ty tư nhân Việt Nam đã có ảnh hưởng mới trong việc họach định chính sách kinh tế của nhà cầm quyền. Một vài nhà lãnh đạo Việt Nam đã bày tỏ quan tâm tới vấn đề mở rộng hơn nữa chương trình quản trị kinh tế của chúng ta vào các lãnh vực cải cách pháp lý và hành chánh. 

Những vấn đề trong khu vực và an ninh:
            Về vấn đề của khu vực và an ninh, sự hợp tác với Việt Nam của chúng ta mở rộng một cách vững chắc. Trong ASIAN và APEC, sự can dự của chúng ta vào các vấn đề như tự do kinh doanh và chống khủng bố tăng tiến cùng với đà mở rộng ảnh hưởng của Việt Nam. Tại Hội Đồng Bảo An LHQ, chúng ta tìm kiếm sự hỗ trợ của họ trên tất cả các vấn đề an ninh và hòa bình thế giới. Đầu tháng này, Việt Nam đã bỏ phiếu thuận về một nghị quyết mới của Hội Đồng Bảo An LHQ cấm vận Iran. Chúng ta hy vọng củng cố sự hợp tác này suốt nhiệm kỳ của Việt Nam tại Hội Đồng. Đứng về phương diện song phương, chúng ta giúp Việt Nam xây dựng khả năng gìn giữ hòa bình và khả năng tìm-và- cứu cấp (seach –and –rescue) thông qua những chương trình Đào Tạo và Huấn Luyện Quân Sự Quốc Tế và các chiến hạm Hải Quân Hoa Kỳ đang víếng thăm các hải cảng Việt Nam. Tàu bệnh viện USNS Mercy dự định viếng Việt Nam vào mùa Hè năm nay.
Chống bệnh Aid/Hiv và cúm gia cầm:
            Trong vài năm vừa qua, sự hợp tác của chúng ta trên các vấn đề y tế nghiêm trọng như bệnh Aid/Hiv và cúm gia cầm đã gia tăng một các nhanh chóng. Nhà cầm quyền Việt Nam đã là người cộng tác nhiệt thành và cởi mở trong cả việc chống lại những de dọa về y tế trên lãnh vực tòan cầu. Việt Nam đã hoan nghênh trợ giúp của Hoa Kỳ trong việc chống lại bệnh cúm gia cầm và làm việc chặt chẽ với chúng ta trong những lãnh vực này. Những đợt bộc phát cúm gia cầm đã khiến bốn người chết tại Việt Nam năm nay. Chúng ta đứng thứ nhì trong số tặng dữ lớn nhất cho Việt Nam, đã góp khỏang 23 triệu từ năm 2005, kể cả 10 triệu riêng tài khóa 2007. Sự trợ giúp của chúng ta tập trung vào chuẩn bị cho trường hợp khẩn cấp, khả năng thí nghiệm và ý thức của quần chúng. Chúng ta làm việc với Việt Nam để chuyển từ phản ứng trong trường hợp khẩn cấp có hướng dẫn sang phương pháp quy họach kéo dài. Việt Nam cũng nằm trong 15 quốc gia được Kế Họach Khẩn Cấp Cứu Trợ Bệnh AIDS của Tổng Thống lưu tâm và trợ giúp cho bệnh AIDS đã chiếm một phần rất lớn trong trợ giúp của chúng ta cho Việt Nam. Chỉ trong tài khóa 2007 không thôi, chúng ta đã chi 66 triệu cho việc phòng ngừa, chăm sóc và chữa trị bệnh AIDS.

Vấn Đề Nhân Quyền:
            Sự hội nhập kinh tế và văn hóa vào thế giới của Việt Nam đã giúp mở cửa xã hội và nới rộng tự do. Công dân Việt Nam ngày nay có tự do hơn trong đời sống, làm việc, thờ phượng và hưởng sự cải thiện đáng kể trong mức sống.
            Tuy nhiên trong lãnh vực chính trị và tự do của công dân, vẫn còn tồn tại nhiều khiếm khuyết. Người dân không có quyền tự do chọn lựa người lãnh đạo, họ bị bắt giữ khi phát biểu nguyện vọng của họ trong ôn hòa. Nhà cầm quyền tiếp tục duy trì hạn chế gắt gao về tự do báo chí, tự do ngôn luận, hội họp và nội dung trao đổi trên hệ thống liên mạng tòan cầu. Vào đầu năm 2007, nhà cầm quyền đã tung chiến dịch đàn áp các nhà đối kháng, bắt giữ và bỏ tù nhiều cá nhân có liên hệ tới Khối 8406 và các nhóm đấu tranh cho dân chủ khác. Một số vẫn còn đang bị giam giữ.Vào Tháng 11, 2007 nhà cầm quyền Việt Nam đã bắt giữ một nhóm gồm các nhà đấu tranh dân chủ trong đó có hai công dân Hoa Kỳ. Do áp lực từ chính phủ lẫn quốc hội và từ rất nhiều cơ quan khác trong cộng đồng thế giới, một vài người đã được thả tự do trong đó có một công dân Hoa Kỳ. Một công dân Hoa Kỳ khác là BS Nguyễn Quốc Quân vẫn còn bị giam giữ tại Thành Phố HCM. Trong số những nhà đối kháng có tên tuổi còn bị giam giữ có LM Nguyễn Văn Lý, Nguyễn Văn Đài và Lê Thị Công Nhân. Trong chuyến viếng thăm Hà Nội tháng qua, tôi đã nêu những trường hợp này với các giới chức cao cấp Việt Nam và nhấn mạnh rằng chúng ta phản đối bất kỳ sự bắt giam những cá nhân đã phát biểu quan điểm của họ trong ôn hòa và cũng nói rõ rằng tất cả những ai bị bắt giữ như thế đều phải được trả tự do ngay lập tức.
            Bên cạnh những thóai bộ như vậy, đã có một vài tiến bộ trong hai năm vừa qua, đó là: Sự tái đàm phán về những vấn đề nhân quyền, việc trả tự do cho một vài tù nhân mà chúng ta quan tâm (prisoners of concern), cộng đồng quốc tế thăm viếng dễ dàng hơn vùng Tây Nguyên, các trại giam để thẩm lượng và sự thu hồi Nghị Định 31CP – một nghị định cho phép nhà cầm quyền vượt qua giới hạn luật pháp. Những giới chức thăm viếng từ Việt Nam, chẳng hạn như những giới chức cao cấp vùng Tây Nguyên thăm viếng Hoa Thịnh Đốn tháng này đã chú ý hơn đến việc gặp gỡ các cơ quan phi chính phủ (NGO), các nhóm người Mỹ gốc Việt và các thành viên của Quốc Hội để thảo luận về vấn đề nhân quyền. Chúng ta mạnh mẽ khích lệ hình thái làm việc chung này. Việt Nam cũng đã tiến hành một vài biện pháp can đảm để chống tham nhũng. Tuần qua, một viên chức cao cấp của Đảng CSVN tại Tỉnh Cần Thơ – Miền Nam Việt Nam đã bị khiển trách và cất chức vì tham nhũng trong việc mua bán đất.
            Cuộc Đối Thọai Nhân Quyền Hằng Năm của chúng ta đã tạo một thông mạch quan trọng để nêu những quan tâm của chúng ta về vấn đề nhân quyền với nhà cầm quyền Việt Nam. Chúng ta đã tổ chức cuộc Đối Thọai lần thứ hai sau khi tái tục vào Tháng Tư, 2007 và lần thứ ba dự định tại Hà Nội vào Tháng Năm. Đây là cuộc đối thọai thẳng thắn để chúng ta có thể đưa ra mọi quan tâm một cách không khoan nhượng (không nương tay). Nhà cầm quyền Việt Nam trân trọng điều này nhưng cải tiến rất ít. Họ phải làm nhiều hơn nữa. Chúng ta đã nhấn mạnh rằng cuộc Đối Thọai phải tập trung vào hành động cụ thể của nhà cầm quyền để cải thiện nhân quyền và phải có kết quả rõ ràng. Điều mà chúng ta muốn nhắn gửi tới nhà cầm quyền Việt Nam là Hoa Kỳ quan tâm tới vấn đề này không phải để làm mất ổn định chính quyền của họ mà vì chúng ta tôn trọng những giá trị phổ quát về nhân quyền và nhân phẩm con người. Chúng ta cũng nói rõ cho nhà cầm quyền Việt Nam biết cải tiến nhân quyền phục vụ quyền lợi của họ và làm cho đất nước mạnh hơn. Đây là những bước mà chúng ta muốn Việt Nam phải làm ngay, chẳng hạn như chấm dứt việc xử dụng những điều khỏan rất mơ hồ “vi phạm anh ninh quốc gia” như Điều 88 của Bộ Hình Luật nhằm đặt ra ngòai vòng pháp luật “các hành động tuyên truyền chống lại nhà nước”, và thả ngay tất cả tù chính trị hiện đang bị giam giữ.

Vấn Đề Tự Do Tôn Giáo:
            Tương phản với những tiến bộ chậm trễ trong lãnh vực tự do về mặt chính trị, quyền tự do tôn giáo ở Việt Nam đang mở rộng một cách đáng kể. Từ 2004 tới 2006, Bộ Ngọai Giao đã liệt Việt Nam vào danh sách “Các Quốc Gia Cần Phải Theo Dõi” (CPC- Country of Particular Concern) vì những vi phạm tôn giáo ở đây. Trong thời gian này, nhiều cộng đồng tôn giáo bị sách nhiều, buộc phải giải thể và đất nước ghi nhận có 45 tù nhân tôn giáo. Nhà cầm quyền chính thức hỗ trợ cho một chính sách hà khắc, đặc biệt tại các vùng gọi là “nhạy cảm”. Vào Tháng 11, 2006 Việt Nam đã nói lên vấn nạn này và đây là sự vi phạm nghiêm trọng quyền tự do tôn giáo quy định trong Đạo Luật Tự Do Tôn Giáo Thế Giới 1998.
            Nhà cầm quyền Việt Nam dứt khóat thay đổi nhiều mặt trong chính sách trứơc đây đã hạn chế tự do tôn giáo và đưa ra đạo luật mới về tôn giáo trong đó cấm cưỡng bách giải thể, tôn trọng tự do thờ phượng của cá nhân và cho phép đăng bộ (đăng ký) hằng ngàn Giáo Đòan Protestant. Nhà cầm quyền đã thả những người mà Hoa Kỳ coi họ là những tù nhân cần quan tâm, hòan tòan vì tín ngưỡng. Họ chấp nhận mọi tin tức hoặc nghi ngờ liên quan đến việc thi hành các luật lệ này. Chúng ta đã theo dõi việc thi hành việc mở rộng quyền tự do tôn giáo một cách cẩn trọng- và được phép tiếp cận để làm công việc theo dõi. Chúng ta cũng phác giác một vài trường hợp trong đó nhà cầm quyền địa phương đã không tuân thủ luật mới. Khi chuyện đó xảy ra, chúng ta báo cho chính quyền trung ương biết, hoặc theo dõi nỗ lực của các nhóm đấu tranh cho tự do tôn giáo để bảo đảm quy dịnh mới được thi hành.
            Trong thời gian ở Hà Nội, tôi đã gặp gỡ các giới chức của Giáo Hội Thiên Chúa Giáo và Giáo Hội Truyền Giáo Phúc Âm (Miền Bắc), họ đều xác nhận đã có nhiều cải tiến đáng kể, tuy nhiên họ quan ngại về những vụ tranh chấp đất đai, sự chậm chạp trong tiến trình đăng bộ. Vào Tháng 2, đông đảo giáo dân Hà Nội đã tụ họp cầu nguyện đòi hỏi nhà cầm quyền trả lại Tòa Khâm Sứ. Trước khi cuộc va chạm lên tới cực điểm, Tòa Giám Mục Hà Nội và nhà cầm quyền đã đồng ý giải quyết bằng con đường thương thảo. Các nhà lãnh đạo mà tôi gặp gỡ đã yêu cầu nhà cầm quyền cho phép giáo hội được quyền rộng rãi hơn trong các lãnh vực từ thiện và dịch vụ xã hội- như giúp đỡ người nghèo, giáo dục, y tế và cứu trợ thiên tai.
            Kể từ khi danh sách Các Quốc Gia Cần Phải Theo Dõi (CPC) được tháo gỡ, nhà cầm quyền Việt Nam đã ban hành bảy cấp đăng bộ cho các giáo đòan, đã tổ chức 3000 khóa huấn luyện và 10,000 khóa hội thảo cho các viên chức tòan quốc hiểu rõ việc thi hành luật lệ mới về tôn giáo. Những mối liên hệ với Vatican cũng đã cải thiện. Cuộc gặp gỡ giữa Thủ Tướng Nguyễn Tấn Dũng và Giáo Hòang Benedict XVI đã đưa tới việc thành lập Nhóm Công Tác Chung vào Tháng 10 năm ngóai để tiến hành việc thiết lập quan hệ ngọai giao.
            Việt Nam có thể và cần phải làm nhiều hơn nữa để tiến tới tự do tôn giáo. Chúng ta mong nhà cầm quyền Việt Nam thúc đẩy nhanh tiến trình đăng bộ cho các giáo đòan và tăng cường huấn luyện cho các giới chức địa phương về luật lệ mới. Tuy nhiên Việt Nam không phải là nước vi phạm tự do tôn giáo nghiêm trọng. Những nhà lãnh đạo của nhiều tôn tôn giáo chính trong nước xác nhận điều này. Điều quan trọng là chúng ta tiếp tục theo dõi tình hình. Và điều quan trọng nữa là chúng ta mong nhận thấy những tiến bộ và khích lệ những điều tốt nên tiếp tục.

Vấn Đề Nhận Con Nuôi ( Chúng tôi không dịch vì thấy không quan trọng)

Vấn Đề Giáo Dục:
            Một dấu hiệu nữa cho thấy mối liên hệ song phưong gia tăng là những liên hệ về giáo dục của chúng ta với Việt Nam đã mở rộng nhanh chóng. Các nhà lãnh đạo trẻ Việt Nam rất ưa thích học hỏi về xã hội và những giá trị của Hoa Kỳ; trợ giúp để họ có dịp chia xẻ những gì  chúng ta đã trải qua là cuộc đầu tư dài hạn và tối cần thiết của chúng ta. Học bổng Fulbright cho Việt Nam là một trong chương trình lớn nhất cho Việt Nam ở Á Châu. Chúng ta đang tiến hành để mở rộng hơn nữa với sự giúp đỡ của các công ty. Chương Trình Huấn Luyện Kinh Tế Của Học Bổng Fulbright Liên Kết Với Đại Học Havard (Harvard –affiliated Fulbright Economics Training Program) tại Thành Phố HCM thành công rất lớn, đã cung cấp cho hằng ngàn giới chức trung cấp Việt Nam những hiểu biết cần thiết về chính sách đối với công chúng để giữ đất nước đi vào đường hướng kinh tế thị trường. Hội Giáo Dục Việt Nam (Vietnam Education Foundation) đang giúp các sinh viên Việt Nam về khoa học và kỹ thuật tại các đại học tại Hoa Kỳ. Những giới chức lãnh đạo cao cấp của Việt Nam mong muốn Peace Corp đến Việt Nam, và Peace Corp cũng đã thảo luận với nhà cầm quyền Việt Nam về khả năng thiết lập chương trình cho một quốc gia. Chúng ta mong những cuộc thảo luận như vậy được tiếp diễn.

Di Sản Chiến Tranh:
            Sau hết, điều cần ghi nhận rằng chúng ta tiếp tục làm việc chặt chẽ với Việt Nam trong những vấn đề liên quan đến di sản của chiến tranh. Việc tìm kiếm đầy đủ các quân nhân Hoa Kỳ mất tích tại Việt Nam vẫn là vẫn là một thành tố quan trọng của mối liên hệ song phương. Từ năm 1973 chúng ta đã có thể hồi hương và ghi nhận 883 hài cốt của lính Mỹ, 627 quân nhân mất tích ở Việt Nam. Chúng ta tiếp tục nhận được sự hợp tác tốt đẹp từ nhà cầm quyền Việt Nam trong việc kiểm kê số mất tích, nhưng chúng ta đòi hỏi thêm về hồ sơ liên quan đến lực lượng của họ ở Lào và Cambodia là nơi mà nhìêu trường hợp chưa có giải đáp. Cuối năm nay, chúng ta sẽ họp với các giới chức Việt Nam để đánh giá 20 năm hợp tác trong lãnh vực này và tìm ra phương thức tìm kiếm tốt hơn.
            Hoa Kỳ là quốc gia viện trợ nhân đạo nhiều nhất cho Việt Nam qua chương trình mine-action program, cung cấp 40 triệu từ năm 1993. Ngòai ra, chúng ta đã cung cấp 43 triệu trợ cấp năm 1989 qua Ngân Khỏan Leahy War Victims Fund để giúp cho tất cả người tàn phế tại Việt Nam. Sự trợ giúp từ Quốc Hội đã giúp thảo gỡ một vấn đề rất tế nhị: đó là vấn đề thuốc khai quang nhiễm chất dioxin. Từ năm 2002, chúng ta đã cung cấp 2 triệu để Việt Nam có khả năng giải quyết những môi trường bị nhiễm chất dioxin, và hiện nay chúng ta dự định một chương trình cung cấp 3 triệu do ngân khỏan riêng của Quốc Hội để làm sạch môi trường và trị liệu. Sự can dự của Hoa Kỳ đã thúc đẩy thêm những nguồn trợ giúp khác như Ford Foundation, UNDP và Czech Republic cùng nhau hợp tác để cùng nói lên quan tâm về tác dụng của chất dioxin. Trong khi Hoa Kỳ và Việt Nam có thể có điểm bất đồng trên vấn đề tế nhị này, song chúng ta đã đạt tới thỏa thuận với Việt Nam là giúp đỡ cho tất cả những người tàn phế bất kể đó là ai, và trình bày vấn đề trong tinh thần hợp tác, không cường điệu. 

Kết Luận:
Thưa bà chủ tịch, trước khi dứt lời, tôi muốn nhấn mạnh đến vai trò trọng yếu của Quốc Hội trong việc giúp đỡ đẩy nhanh tiến trình bang giao giữa hai nước trong những năm vừa qua.Với sự trợ giúp của Quốc Hội, chúng ta tái lập bang giao với Việt Nam và biến họ thành đối tác thương mại bình thường và thừơng trực. Khi mối liên hệ với Việt Nam ngày càng cải tiến, Quốc Hội cũng đã cũng đã tăng cường nỗ lực để mở rộng sự can dự này và cũng bảo đảm rằng nhân quyền và tự do tôn giáo vẫn là những ưu tiên hàng đầu trong mối quan hệ song phương.
            Mười ba năm qua, mối liên hệ của chúng ta với Việt Nam đã chuyển hóa từ đối đầu sang hợp tác. Đất nước này đã thay đổi lớn lao trong thời gian qua, và đời sống của đại đa số nhân dân đã cải tiến có thể thấy rõ. Những khó khăn vẫn còn tồn tại, đặc biệt trong lãnh vực nhân quyền và dân chủ, và chúng ta phải thẳng thắn nói ra điều này. Vì quyền lợi của đất nước Hoa Kỳ, chúng ta tiếp tục cùng với họ như một người hợp tác để chuyển hóa Việt Nam, và khi cần thiết vẫn có những chỉ trích xây dựng.
            Xin cám ơn quý vị đã cho tôi cơ hội phát biểu ngày hôm nay. Tôi sãn sàng chờ đón những câu hỏi từ quý vị.
Tài liệu: Bộ Ngọai Giao Hoa Kỳ (Website)
Người dịch: Đào Văn Bình (2008)

No comments:

Post a Comment