Saturday, 28 February 2015

Cách Trung Quốc khai thác kẽ hở trong luật quốc tế để hùng bá ở Đông Á

 

Cách Trung Quốc khai thác kẽ hở trong luật quốc tế để hùng bá ở Đông Á

James Kraska, FPRI (1/2015)
Phan Văn Song dịch
Lê Vĩnh Trương hiệu đính

James Kraska là một Thành viên Cao cấp trong Chương trình về An ninh Quốc gia của FPRI. Ông là Giáo sư Luật và Chính sách Đại dương tại Trung tâm Nghiên cứu về Luật quốc tế Stockton tại US Naval War College; Nghiên cứu viên ưu tú tại Viện Luật Biển, trường Luật Berkeley Đại học California; Thành viên Cao cấp Trung tâm Luật và Chính sách Đại dương tại trường Luật Đại học Virginia; và Thành viên Cao cấp tại Trung tâm Luật và An ninh Quốc gia tại trường Luật Đại học Virginia.

Ai “quan tâm tới kẽ hở” ở Biển Đông? Kẽ hở, được tạo ra trong luật pháp quốc tế liên quan đến việc dùng vũ lực hay cưỡng ép và quyền tự vệ của các quốc gia nạn nhân. Trung Quốc khai thác lỗ hổng này trong luật pháp quốc tế khi sử dụng vũ lực để buộc các nước láng giềng chấp nhận quyền bá chủ của Trung Quốc ở Đông Nam Á. Với việc sử dụng các lực lượng trên biển không đối xứng (chủ yếu là các tàu cá và tàu hải cảnh), Trung Quốc thôn tính Biển Đông và Biển Hoa Đông một cách chậm và chắc. Bằng cách khai thác kẽ hở trong luật pháp quốc tế do Tòa án Quốc tế (ICJ) tạo ra, họ đã tiến hành việc này khiến các quốc gia trong khu vực khó có thể phản ứng một cách hiệu quả. Phương diện pháp lí này của chính trị quốc tế về các tranh chấp biển ở Đông Á không được nhiều người hiểu biết, nhưng đó là cốt lõi của chiến lược của Trung Quốc trong khu vực.

Chiến lược của Trung Quốc
Trong mưu đồ lớn này, Trung Quốc phải vượt qua kháng cự từ ba nhóm đối kháng. Thứ nhất, Trung Quốc phải áp đảo Nhật Bản và Hàn Quốc ở Biển Hoa Đông và Hoàng Hải. Kế hoạch: chia để chinh phục. Phải chắc chắn rằng Nhật Bản và Hàn Quốc ghét nhau nhiều hơn là họ ghét Trung Quốc. Chừng nào mà Nhật và Hàn còn ấp ủ nỗi đau lịch sử thì Trung Quốc còn thủ lợi.

Thứ hai, Bắc Kinh phải “Phần Lan hoá” các quốc gia xung quanh Biển Đông bằng cách đưa vùng biển nửa kín này vào quỹ đạo của nó. Kế hoạch: sử dụng một bộ cà rốt và gậy để đưa các “bạn ngoài mặt” (frenemies) yếu hơn nhiều – như Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, Brunei – vào vòng thần phục. Tương tự như vậy, sự chia rẽ trong nhà ASEAN làm lợi cho Trung Quốc. Chiến lược này tự thân là một cách tiếp cận mạnh mẽ, và 150 năm đầu Mỹ gieo rắc thống trị và chia rẽ ở Nam Mĩ đã mở ra một con đường tuyệt vời cho một đế quốc đang hình thành tiếp bước.

Cuối cùng, Bắc Kinh phải thủ thế để ngăn ngừa khả năng can thiệp và ngăn trở của hai cường quốc biển lớn bên ngoài khu vực. Chỉ có Hoa Kì và Ấn Độ là ở trong vị thế cản phá tham vọng của Trung Quốc. Kế hoạch: gây sức ép trong khu vực mà không liều tới mức biến thành chiến tranh trên biển giữa các cường quốc. Đặc biệt, tránh né sự cố dễ kích hoạt các thỏa thuận an ninh của Mĩ với Nhật Bản, Hàn Quốc, hoặc Philippines.[1] Trong mưu đồ ba kế hoạch này, Trung Quốc gây sức ép qua hết các thang bậc của cưỡng ép mức thấp, song cẩn thận không đến mức bị xem là “tấn công vũ trang” trong luật pháp quốc tế, và do đó mở đường cho quyền tự vệ của cá nhân và tập thể.

Ví dụ, bắt đầu vào năm 1999, Trung Quốc tuyên bố “lệnh cấm đánh bắt cá” theo mùa khắp Biển Đông, dù họ không có thẩm quyền pháp lí để quy định việc đánh cá ngoài vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lí (EEZ) của mình. Chỗ xa nhất mà lệnh cấm của Trung Quốc vươn tới cách mũi phía nam của đảo Hải Nam hơn 1000 hải lí. Lệnh cấm đánh bắt cá nhằm quản lí nguồn cá trong vùng EEZ của Việt Nam, Philippines, Malaysia, Indonesia, và Brunei. Hãy tưởng tượng điều tương tự nếu như Hoa Kì bắt đầu kiểm soát các tàu đánh cá và các giàn khoan dầu trong EEZ của Mexico.

Trung Quốc cũng đã không ngơi nghỉ đề cao quyền lịch sử đối với các đảo và các thể địa lí, và hầu như tất cả các vùng biển, của toàn bộ Biển Đông. Thế giới đều mất kiên nhẫn với yêu sách lạnh lùng và ngang ngược của Trung Quốc về “vùng nước lịch sử” ở Biển Đông. Yêu sách biển được dựa trên các nguyên tắc được quy định trong Công ước của Liên Hợp Quốc về Luật Biển (LOSC) mà Trung Quốc tham gia năm 1996. Tuy nhiên, yêu sách quá mức của Bắc Kinh là dựa trên đường 9 (bây giờ 10) đoạn vốn được Trung Hoa Dân Quốc công bố năm 1947. 

Dù một quy tắc cơ bản của các nguồn của pháp luật quốc tế là cái “mới nhất chiếm ưu thế” Trung Quốc vẫn trắng trợn nêu ra yêu sách đường nhiều đoạn như con át chủ bài để bỏ qua nghĩa vụ pháp lí trong Công ước Luật biển.[2] Trung Quốc cũng đã làm mới yêu sách lịch sử ở Biển Hoa Đông đối với quần đảo Senkaku, và ở Hoàng Hải. Yêu sách biển tạo thành “lỗi tự gây ra” [unforced error] lớn nhất của Trung Quốc trong khi mạo nhận rằng mình là nước lớn “đang trỗi dậy một cách hoà bình”.

Chiến thuật của Trung Quốc
Bắc Kinh triển khai nhiều loại ở số lượng đáng kinh ngạc các tàu và máy bay chấp pháp dân sự và thương mại nhằm áp đặt yêu sách của mình và hù dọa nước khác. Tàu đánh cá và ngư chính là đội tiên phong của chính sách này, dẫn đến các cuộc đụng độ thường xuyên với tàu tuần tra an ninh biển trong EEZ của các nước láng giềng.[3] Defense News gọi đoàn tàu đánh cá của Trung Quốc là những “kẻ thực thi chân gỗ” (proxy enforcer) hoạt động phối hợp với Cảnh sát biển và Hải quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc (PLAN) để “khoanh vùng một khu vực tranh chấp tranh giành hoặc tạo ra một hàng rào phong tỏa” đối với lực lượng hải quân của các đối thủ. 

Chẳng hạn, tàu Hải giám Trung Quốc đã đóng kín hoàn toàn lối vào đầm phá rộng lớn của bãi ngầm Scarborough, nằm bên trong EEZ của Philippines và cách Tây Philippines 125 hải lí. Đôi khi, những sự cố này biến thành chết người. Ví dụ như trong tháng 12 năm 2011, một ngư dân Trung Quốc giết chết một cảnh sát biển Hàn Quốc khi anh này cố tìm cách bắt giữ tàu Trung Quốc vì đánh cá bất hợp pháp.

Đoàn tàu đánh cá là “đám được thuê phản đối” (rent-a-mobs) trên biển, tuy nhiên chúng đặt ra một tình thế lưỡng nan nhạy cảm đối với các nước trong khu vực. Nếu tàu đánh cá bị lực lượng thực thi pháp luật biển của các nước láng giềng hạch hỏi đuổi đi thì có vẻ như ngư dân Trung Quốc đang bị đối xử nặng tay. Yếu tố chính trị này cũng hâm nóng chủ nghĩa dân tộc ở Trung Quốc. Mặt khác, nếu các quốc gia ven biển im lặng đối với những hoạt động của các tàu đánh cá thì có nghĩa họ nhường thẩm quyền và quyền chủ quyền trong EEZ của mình cho Trung Quốc.

Trung Quốc bắt đầu sử dụng tàu cá làm lực lượng không chính quy lần đầu tiên vào đầu thập niên 1990 cho hai đảo Mã Tổ [Matsu] và Kim Môn [Jinmen] để tạo sức ép lên Đài Loan trong những lúc có căng thẳng chính trị.[4] Hiện nay Trung Quốc sử dụng chiến thuật này chống Nhật ở Biển Hoa Đông và chống lại Philippines, Việt Nam và Malaysia ở Biển Đông. Trung Quốc cũng sử dụng các đoàn tàu cá đối với Hàn Quốc ở Hoàng Hải. Năm 2009, lúc đối đầu với tàu đặc nhiệm USNS Impeccable khi tàu này tiến hành khảo sát quân sự cách Đảo Hải Nam 75 hải lí, Trung Quốc đã sử dụng một đội tàu gồm một tàu tình báo hải quân, một tàu ngư chính, một tàu hải dương học và hai tàu chở hàng nhỏ hoặc tàu đánh cá. Một số tàu có vẻ được bố trí với người thuộc lực lượng đặc biệt Trung Quốc.[5]

Để thống nhất các nỗ lực mạnh mẽ hơn trong chính phủ, Bắc Kinh nhập năm cơ quan riêng biệt thành một lực lượng Hải Cảnh duy nhất hồi tháng 3 năm 2013. “Năm con rồng” đó là Tuần duyên Trung Quốc thuộc Công an Biên phòng, Cục An toàn Hàng hải Trung Quốc thuộc Bộ Giao thông vận tải, Hải giám Trung Quốc thuộc Cục Quản lí Đại dương Quốc gia, Lực lượng Ngư chính Trung Quốc thuộc Bộ Nông nghiệp và lực lượng thuế trên biển thuộc Tổng cục Hải quan.

Năm ngoái, Trung Quốc nhét thêm giàn khoan dầu vào rọ các lực lượng bán quân sự trên biển khi giàn khoan HD 981 thuộc Tổng công ty Dầu khí Ngoài khơi Quốc gia Trung Quốc (CNOOC) đặt gần quần đảo Hoàng Sa trong EEZ của Việt Nam. Giàn khoan này đã được bảo vệ với một đoàn khoảng 30 tàu đánh cá, tàu bán quân sự, tàu chiến của PLAN cho đến khi rút đi một tháng sau đó. Sự cố giàn khoan dầu đưa quan hệ Trung-Việt xuống điểm thấp nhất tính từ năm 1979. Lực lượng Việt Nam bị thủy quân lục chiến Trung Quốc đẩy khỏi quần đảo Hoàng Sa trong cuộc xâm lược đẫm máu năm 1974.

Khi khu vực này đang chờ phán quyết của trọng tài theo đơn kiện của Philippines để bảo tồn quyền chủ quyền trong EEZ của mình, việc Trung Quốc phiêu lưu trên biển trong khu vực xeo một lỗ hổng trong luật nhân đạo quốc tế do một số luật gia hàng đầu thế giới soạn thảo trong vụ kiện trước ICJ 1986 về các hoạt động quân sự và bán quân sự chống lại Nicaragua (Nicaragua kiện Hoa Kì).

Trung Quốc “lưu tâm đến kẽ hở” trong Luật quốc tế
Để cho chiến lược của mình có tác động, Trung Quốc phải ép buộc dần các nước láng giềng chấp nhận bá quyền của Bắc Kinh, nhưng tránh đối đầu quân sự. Trung Quốc sử dụng vũ lực thông qua các tàu hải cảnh, tàu đánh cá, và bây giờ cả giàn khoan để thay đổi cảnh quan chính trị và pháp lí trên biển ở Đông Á, nhưng họ vẫn có ý giữ tàu hải quân xa ngoài chân trời để tránh nguy cơ kích động chiến tranh.

Hiến chương của Liên Hiệp Quốc điều chỉnh luật về việc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế. Mục tiêu của Liên Hiệp Quốc là nhằm ngăn chặn “các hành vi xâm lược và vi phạm hoà bình khác.”[6] Trong khi Hiệp ước Kellogg-Briand 1928 nổi tiếng đặt ngoài vòng pháp luật các hành vi “chiến tranh”, và thỏa thuận này bây giờ được coi là đỉnh cao của sự ngây thơ giữa hai cuộc chiến, việc ngăn cấm vũ lực trong Hiến chương Liên Hiệp Quốc thậm chí còn rộng hơn. Theo Điều 2 (4) của Hiến chương, “tấn công vũ trang” (hay chính xác hơn, xâm lược vũ trang hoặc aggression armée trong bản dịch tiếng Pháp chính thức) là trái pháp luật. Điều 2 (4) cũng nói rằng đe dọa sử dụng vũ lực cũng là vi phạm như chính việc sử dụng vũ lực.

Các quốc gia có thể làm gì nếu họ bị tấn công vũ trang hoặc xâm lược vũ trang? Điều 51 của Điều lệ công nhận quyền tự thân về tự vệ cá nhân và tập thể của tất cả các nước để đối phó với một cuộc tấn công. Cho đến nay điều này vẫn ổn – bất kì việc sử dụng vũ lực bất hợp pháp nào đều được coi là tấn công vũ trang, và tấn công vũ trang kích hoạt quyền tự vệ của nước nạn nhân, đúng thế không? Sai, ít nhất là theo Tòa án Công lí Quốc tế. Phán quyết trong vụ Nicaragua kiện ở toà ICJ năm 1985 mở ra một “kẽ hở” giữa việc tấn công vũ trang của một nước và quyền tự vệ của nước nạn nhân.
Vụ kiện phát sinh từ các cuộc chiến tranh ở Trung Mĩ trong thập niên 1980. 

Chế độ Sandinista ở Nicaragua nắm quyền vào năm 1979, và bắt tay vào một chiến dịch Marxist “giải phóng” Honduras, El Salvador và Costa Rica. Nicaragua yểm trợ phong trào kháng chiến manh mún ở El Salvador với vũ khí, đạn dược, tiền bạc, đào tạo, tình báo, chỉ huy và kiểm soát, cũng như cung cấp nơi trú ẩn ngoài biên giới. Với sự trợ giúp này, lực lượng du kích làm tê liệt nền kinh tế El Salvador và biến bất mãn của thiểu số thành một cuộc nổi dậy toàn diện. Dân chúng trong vùng gánh chịu đau khổ, và cả hai bên đều phạm các hành vi tàn bạo.

Để ổn định El Salvador, Tổng thống Ronald Reagan đã kí Chỉ thị Quyết nghị an ninh quốc gia 17 (NSSD 17) vào ngày 23 tháng 11, 1981. NSSD 17 cho phép CIA xây dựng lực lượng phiến quân Contra tiến hành hành động bí mật để lật đổ chế độ Sandinista ở Nicaragua. Viện trợ quân sự đổ vào Honduras và El Salvador để giúp họ chống lại phiến quân cộng sản. Quyết định này phản ánh một trong những chương trình đầu tiên của chủ thuyết Reagan đối lại việc mở rộng ảnh hưởng của Liên Xô.

Năm 1984, Chính phủ Nicaragua đã khởi kiện Hoa Kì trước ICJ, lập luận rằng các hoạt động bí mật của Mĩ chống Nicaragua, bao gồm việc trang bị vũ khí cho phiến quân Contra và thả mìn các cảng của Nicaragua, là vi phạm chủ quyền của Nicaragua. Hoa Kì phản biện rằng các hoạt động của Mĩ là thực hành quyền tự vệ cố hữu của cá nhân và tập thể theo theo Điều 51 của Hiến chương Liên Hiệp Quốc. Tổng thống Duarte của El Salvador nói với giới truyền thông vào ngày 27 tháng 7 năm 1984:

“Như tôi đã tuyên bố, theo quan điểm của Salvador, là chúng tôi đứng trước vấn đề bị xâm lược bởi một nước tên là Nicaragua bên trong El Salvador, rằng bọn họ đang đưa vũ khí, huấn luyện, con người, đạn dược và và bao nhiêu thứ nữa vào El Salvador. Xin khẳng định, ngay vào giờ phút này họ đang sử dụng tàu đánh cá ngụy trang, đưa vũ khí vào El Salvador vào ban đêm.

Trước tình hình này, El Salvador phải tìm cách ngăn chặn. Phe Contra … đang tạo ra một loại rào cản ngăn chặn không để Nicaragua tiếp tục đưa những thứ đó vào El Salvador qua đường bộ
Họ thay thế bằng cách chuyển hàng vào bằng đường biển, và thâm nhập được qua ngã Monte Cristo, El Coco, và El Bepino.”[7]

Tòa đã bác bỏ lập luận của Mĩ và El Salvador về tự vệ chống lại tấn công vũ trang của Nicaragua. Trong một quyết định tạm thời về vụ kiện này, ICJ phán quyết với số phiếu 15-0 rằng Hoa Kì phải “ngay lập tức ngừng và từ bỏ mọi hành động hạn chế, phong tỏa, hoặc gây nguy hiểm cho việc ra vào các cảng của Nicaragua ….”. Trong phán quyết cuối cùng dựa trên chứng lí [ruling on Merits], qua một cuộc bỏ phiếu 14-1 ICJ khẳng định rằng quyền chủ quyền của Nicaragua không bị các hoạt động bán quân sự của Mĩ hủy hoại. Huấn luyện, cung cấp vũ khí, trang thiết bị, và tiếp tế cho lực lượng Contra là vi phạm luật pháp quốc tế, và không phải là một biện pháp tự vệ tập thể hợp pháp mà Hoa Kì và các đồng minh thực hiện trong khu vực của mình để đối phó với sự xâm lăng của Nicaragua.

ICJ phán rằng cưỡng ép mức thấp hoặc can thiệp, như “việc đưa các nhóm/toán vũ trang, không chính quy, hoặc lính đánh thuê thay mặt cho hoặc từ một nước” vào một nước khác cấu thành một “cuộc tấn công vũ trang”, nhưng quyền tự vệ chỉ được kích hoạt khi sự can thiệp như thế đạt tới “quy mô và hậu quả” hay có “trọng lựợng” tới mức như một cuộc xâm lược. Không thể dùng quyền tự vệ chống lại xâm hại hoặc tấn công vũ trang mức thấp bằng quân chính quy hay quân nổi dậy khi mức xâm hại chưa tăng đến mức quan trọng hoặc ở quy mô và hậu quả nào đó.

Trong khi cả Nicaragua lẫn Hoa Kì đều đã tài trợ cho quân du kích và tham gia vào các hành vi làm mất ổn định khu vực, sự phân biệt của ICJ mở ra khái niệm “kiểm soát hiệu quả”. Nicaragua được Toà xác định là chưa có “kiểm soát hiệu quả” đối với những người nổi dậy lật đổ chính phủ ở El Salvador và Honduras, trong khi Hoa Kì được coi là thực hiện “kiểm soát hiệu quả” đối với việc thả mìn các cảng Nicaragua và quân Contra.

Tòa án không cho El Salvador cơ hội can thiệp vào vụ kiện, đảm bảo chuyện ông Thiện đối đầu với ông Ác [nguyên văn: David chống Goliath]. ICJ cũng chấp nhận phiên bản của Sandinista về các sự kiện và bỏ qua việc Nicaragua xâm lược vũ trang chống các nước láng giềng.

[8] Thẩm phán Schwebel, một người Mĩ trong Tòa án, đưa ra phát biểu bất đồng duy nhất: “Nói vắn tắt Tòa có vẻ cung cấp – gần như cho không – một đơn thuốc để các chính phủ hung bạo lật đổ các chính phủ yếu trong khi từ chối không cho các nạn nhân tiềm năng… một hi vọng duy nhất để tồn tại.” Vụ kiện tiêu biểu cho một trong những mảng sơ suất lớn nhất của luật pháp quốc tế trong lịch sử và không đáng ngạc nhiên rằng phán quyết này bây giờ hậu thuẫn việc xâm lấn trên biển của Trung Quốc (cũng như các hành vi tai quái của Nga tại các nước láng giềng từ Georgia đến Ukraine đến vùng Baltic – nhưng đó là một câu chuyện khác). 

Dù vụ kiện của Nicaragua có là nỗ lực nhằm đánh bại Mỹ về tố tụng, hoặc một nỗ lực trí tuệ cao nhưng định hướng yếu về mặt công bằng trong cộng đồng quốc tế (như tôi đã gợi ra ở đây) hay không, kết quả là một lỗ hổng mở ra giữa xâm lược vũ trang và quyền tự vệ. Bằng cách sử dụng sự xâm phạm ở mức thấp thông qua nhiều hành vi nhỏ nhưng không có hành vi nào trong đó đủ để kích hoạt quyền tự vệ, những kẻ xâm lược chơi trên cơ. 

Nhận thức rõ về mặt pháp lí và mặt chính trị vụ Nicaragua, Trung Quốc đang kiếm được nhiều điều lợi chiến lược trên biển với cái giá các nước láng giềng phải trả mà không tạo nguy cơ làm nổ ra chiến tranh.

Hơn nữa, việc Trung Quốc sử dụng có tính chiến lược đội tàu đánh cá như là một thành phần của “chiến tranh pháp lí” vượt khỏi việc khai thác lỗ hổng giữa sử dụng vũ lực và tự vệ trong luật về sử dụng vũ lực (jus ad bellum); điều đó cũng ảnh hưởng đến luật trong chiến tranh (jus in bello). Tàu cá có khả năng sẽ được sử dụng làm các tàu chiến trong bất kì cuộc chiến tranh khu vực nào. Một số người nghi ngờ Trung Quốc đang trang bị máy dò sonar cho hàng ngàn tàu đánh cá để tích hợp chúng vào các hoạt động tác chiến chống tàu ngầm của hải quân vốn có nhiệm vụ tìm và đánh chìm tàu ngầm của Mĩ và đồng minh.

Kể từ vụ kiện cột mốc Paquette Habana 1990, phát sinh từ việc Hoa Kì bắt giữ tàu đánh cá Cuba trong cuộc chiến Mĩ-Tây Ban Nha, tàu đánh cá ven biển và ngư dân được loại ra khỏi mục tiêu tấn công hoặc miễn bị bắt giữ trong xung đột vũ trang. Với việc đặt máy dò sonar trên tàu đánh cá như một phép nhân tăng lực lượng cho các hoạt động chống tàu ngầm, Bắc Kinh ngay lập tức có nguy cơ làm các tàu này bị coi là mục tiêu hợp pháp trong các sự cố xung đột. 

Nhưng cáp quang của Hải quân Mĩ làm chìm tàu đánh cá Trung Quốc là tuyên truyền thực hiện theo đơn đặt hàng. Trong mọi sự cố, Sam Tangredi, một chiến lược gia có tiếng, tự nhủ Hải quân Mĩ sẽ dám xài bao nhiêu ngư lôi trong số có hạn khi mà số lượng tàu đánh cá là vô thiên lủng.

Vậy phản ứng đối với tất cả điều này có thể là gì? Nhiều nước từ lâu đã sử dụng các cuộc tấn công không đối xứng như cách không lực bay dưới tầm radar. Cái khác biệt hiện nay là chiến tranh không chính quy được dùng như một công cụ của kẻ mạnh chứ không phải kẻ yếu để thay đổi hệ thống an ninh khu vực. Hơn nữa, các khía cạnh pháp lí quốc tế của tình thế hiện tại phải quen với lợi thế của Trung Quốc. Do đó, rủi ro hệ thống là lớn tới mức đó và chỉ có thể so sánh với chiến dịch Liên Xô gây bất ổn định các nước thời Chiến tranh Lạnh. Ai nói luật pháp quốc tế là chẳng có gì quan trọng?

J. K.

FPRI, 1528 Walnut Street, Suite 610, Philadelphia, PA 19102-3684 Để biết thêm thông tin, liên hệ với Eli Gilman tại 215-732-3774, ext. 103, email fpri@fpri.org, hoặc ghé thăm chúng tôi tại www.fpri.org
Dịch giả gửi BVN.

[1] Hoa Kì có thoả thuận quốc phòng với 5 nước ASEAN: Thailand, Philippines, Japan, South Korea, và Australia. Một số trong các thoả thuận này và Đạo luật về quan hệ với Đài Loan là chủ đề của một pod cast của FPRI năm ngoái, có thể truy cập ở đây: http://www.fpri.org/multimedia/2014/06/us-security-commitments-asias-changing-strategicenvironment-look-japan-taiwan-korea-and-philippines-audio.
[2] Những nước có yêu sách đánh cá lịch sử thể tìm kiếm quyền truy cập từ các quốc gia ven biển quản lí những khu vực đó theo Điều 62 của Công ước Luật Biển.

[3] Lyle J. Goldstein, “Chinese fisheries enforcement: Environmental and strategic implications,” 40 Marine Policy 187 (2013).

[4] Wendell Minnick, Fishing Vessels in China Serve as Proxy Enforcers, Defense News, August 18, 2014, p. 15.
[5] Một số “ngư dân” có vẻ không là ngư dân làm ăn chân chính- trẻ, ăn mặc đàng hoàng, thể thao, liên tục trên biển trong khu vực Đông Nam Á mà da không bị rám nắng, và không thể vận hành thiết bị đánh cá (!). Quan sát này đã được một cựu đô đốc 2 sao ở Đông Nam Á và một trưởng Hải quân đã nghỉ hưu của một trong những quốc gia xung quanh Biển Đông cho tôi biết.

[6] Điều 1(1), Hiến chương LHQ.

[7] Họp báo của Tổng thống Duarte, Sam Salvador Radio Cadena YSKL (tiếng Tây Ban Nha) 1735 GMT 27 July 1984 in San Salvador (July 27, 1984) reprinted in FBIS Daily Reports Latin America, 1, 4 (July 30, 1984). 8 See, e.g. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987).

[8] Xem, chẳng hạn. John Norton Moore, The Secret War in Central America – Sandinista Assault on World Order (1987). John Norton Moore từng là Phó Đại diện của Hoa Kì vào giai đoạn pháp lí của vụ án. Hoa Kì đã không tham gia trong giai đoạn đối chứng (Merits phase) của vụ kiện. Toàn văn tiết lộ: Tôi thực hiện nghiên cứu tiến sĩ dưới hướng dẫn của John Norton Moore tại School of Law Đại học Virginia, ở đó tôi cũng làm việc với tư cách Nghiên cứu viên cao cấp. Giáo sư Moore đã viết rất nhiều về những thiếu sót của pháp luật trong vụ này trong John Norton Moore, Jus Ad Bellum before the International Court of Justice, 52 Virginia Tạp chí Luật quốc tế 903, 919-935 (Hè 2012).


__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Đá Chữ Thập: pháo đài canh giữ biển Đông?


Đá Chữ Thập: pháo đài canh giữ biển Đông?

Việt-Long - RFA
2015-02-26
Email
Ý kiến của Bạn
Chia sẻ
In trang này
vtgtt022515.mp3 Phần âm thanhTải xuống âm thanh
reclamation
Tàu thuyền Trung Quốc đang bồi đấp đảo mới từ Đá Chữ Thập
chinatopix.com
Báo Wall Street Journal sưu tầm hình ảnh những đá, bãi đang được Trung Quốc kiến tạo và mở rộng ở Trường Sa, đem đặt cạnh những không ảnh chụp các vị trí  này trước đây trong năm ngoái, cho thấy diện tích các nơi này được làm tăng gấp nhiều lần. Riêng Đá Chữ Thập chiếm của Việt Nam năm 1988 đã được kiến tạo tăng diện tích gấp hơn 10 lần so với đầu năm ngoái, khiến nó trở thành hòn đảo lớn nhất Trường Sa, lớn hơn cả đảo Ba Bình vốn bị Đài Loan chiếm giữ từ đầu thập niên 1950.

Anh hưởng quốc tế?

Việc Trung Quốc tái tạo đảo ở Trường Sa đã được quốc tế chú ý từ đầu năm ngoái khi Bắc Kinh khởi sự kiến tạo đá Chữ Thập một cách đại quy mô, cùng lúc với năm đảo và bãi đá khác, trong đó có đá Gác-Ma cũng chiếm của Việt Nam, và gần đây lại xây đắp một vị trí thứ bảy nữa ở Đá Vành Khăn, cách Palawan 209 km.  Giới chuyên gia quân sự và chiến lược là những người lưu ý tới sự kiện này nhiều nhất, vì họ thấy được qua hành động đó, Trung Quốc quyết tâm bành trướng lấn chiếm 90% diện tích biển Đông, đối đầu với chính sách của Hoa Kỳ chuyển trục chiến lược sang khu vực châu Á Thái Bình Dương.
reclamation-fiery-cross-reef
Không ảnh chụp Đá Chữ Thập đang được bồi đắp, tân tạo
Tất nhiên mọi sự kiện liên quan đến biển Đông đều liên quan chặt chẽ tới Việt Nam trên mọi phương diện, từ chủ quyền đến kinh tế, quân sự, ngoại giao, ảnh hưởng vào chế độ chính trị... nhưng hành động này của Trung Quốc ở biển Đông mang nhiều ý nghĩa hơn đối với chiến lược châu Á của Hoa Kỳ.  Sách lược biển Đông của Trung Quốc không có gì là lạ, nhưng diễn tiến trong năm qua đã chứng tỏ Bắc Kinh rất quyết đoán và gấp rút thực hiện nó, song song với việc phát triển quốc phòng, mặc dù kinh tế và nội trị có những khó khăn riêng.

Ý nghĩa chiến lược?

Báo chí của Trung Quốc gọi đá Chữ Thập là căn cứ lợi hại từ đó có thể tung ra cuộc tấn công chiếm giữ thủ phủ Sài Gòn của miền Nam Việt Nam trong vòng vài giờ đồng hồ! Nhưng đó chỉ là điều khoa trương ồn ào, không do Quân Ủy Trung ương Bắc Kinh phát biểu, để hăm he và bảo Việt Nam đừng trông mong vào Mỹ. Dường như Trung Quốc cũng hiểu rằng việc tấn công chiếm Sài Gòn không thực tế và không quan trọng bằng tính cách căn cứ hải dương, pháo đài trấn ngự con đường biển từ eo Malacca ngược lên tới nam Trung Hoa, lên tận biển Hoa Đông vào Nhật Bản và bán đảo Triều Tiên.
Tuy nhiên, trước hết, nhóm đá và bãi được tân tạo để có thể làm căn cứ hải dương và điểm tiếp vận cho các hạm đội hải quân cùng hằng ngàn tàu đánh cá của Trung Quốc. Quan trọng hơn thế, khi căn cứ này đi vào hoạt động nó sẽ cho thấy ngay hình ảnh lãnh hải rộng lớn của biển Đông nằm hoàn toàn trong tay Trung Quốc.

Vai trò quân sự?

Thực ra nhóm vị trí tân tạo này chỉ tạo nên hình ảnh và hình thức một lãnh thổ xa xôi của Trung Quốc, nhằm khoa trương về cái gọi là chủ quyền lãnh hải Trung Quốc từ Hải Nam tới Trường Sa và qua khỏi Trường Sa. Nó không đủ điều kiện địa lý và pháp lý để Bắc Kinh dựa vào đó xác định chủ quyền lãnh hải đặc quyền.
Về mặt quân sự, vị trí này cũng chỉ mang tính hình thức.  Ngay trong trường hợp giả dụ xảy ra chiến tranh với Việt Nam, liệ
kilo-636
Tàu ngầm Kilo-636 của Việt Nam
u cái căn cứ vững chắc và to lớn nhất trong nhóm đó là đá Chữ Thập có chịu nổi chục quả ngư lôi loại ASuW 53-65, 533 ly, với khối nổ ba trăm kilogram phóng từ tàu ngầm Kilo-636 KMV "sát thủ thầm lặng" của Việt Nam? Trận tấn công có thể khiến cầu tàu, sân bay cùng theo nhau lặn xuống đáy biển! Hay nếu Việt Nam may ra "mượn" được qua tay Mỹ vài quả bom tấn kiểu "shock-and-awe" nữa, thì cả một loạt căn cứ gọi là "tân tạo bề thế" đó cũng sẽ bị xóa vĩnh viễn trên bản đồ. Như vậy liệu nó có khả năng giữ được cái gọi là vai trò pháo đài trấn ngự biển Đông đối đầu với chính sách chuyển trục của Mỹ?

Chủ đích khác

Hình ảnh "pháo đài trấn ngự biển Đông", do đó, chỉ là hình ảnh trên mặt hình thức để khoa trương mà thôi. Một dúm đá với rạn san hô lèo tèo khi nổi khi chìm trên mặt nước như vậy có tân tạo bồi đắp đến mấy thì cũng chỉ tạo được một hình thức không có thực chất, không có gì lợi hại về mặt quân sự và cũng không làm mốc cho lãnh thổ mở rộng. Ngay cả hòn đảo lớn nhất và kiên cố nhất ở Trường Sa là đảo Ba Bình bị Đài Loan chiếm cứ cũng không đủ điều kiện cho một căn cứ kiên cố trên biển, so với những điểm chiến lược như dãy đảo Saipan, Iwo Jima dẫn vào đất Nhật. Phòng thủ nhóm đảo nhỏ nhoi đó cũng đã khó, khoan nói đến căn cứ xuất phát tấn công.
Tóm lại hành động chiếm cứ và bồi đắp kiên cố những đá và bãi ở Trường Sa không thể làm nghiêng cán cân lực lượng trước ưu thế quân sự tuyệt đối của Mỹ ở biển Đông, mà chỉ là để tạo nên một hình ảnh lãnh thổ bao trùm biển Đông. Trung Quốc chỉ cố thổi phồng hình ảnh lên cho thành thực tế, để cho quốc tế nếu không nhìn nhận thì cũng không thể đẩy được Trung Quốc ra khỏi vùng lãnh thổ lãnh hải mà họ nhất quyết bám chặt bằng mọi giá.

Không chiến tranh

Nhóm đá mới bồi đắp này quả là không có ý nghĩa gì về quân sự khi chẳng may xảy ra chiến tranh, nhưng liệu Trung Quốc có để xảy ra một cuộc chiến tranh ở biển Đông, trong khi đám báo chí Trung Quốc phụ họa với đảng Cộng sản cầm quyền lúc nào cũng hô hoán chuyện dạy Việt Nam một bài học nữa, rồi thì "thừa khả năng đánh chiếm Việt Nam trong vài ngày"? Câu trả lời có nhiều phần là KHÔNG, vì chiến tranh sẽ lật ngược quyền lợi chiến lược và kinh tế của Bắc Kinh.
Không gây chiến tranh nhưng Trung Quốc gắng tô bồi nhóm đảo cỏn con đó để có thể mở ra vùng nhận dạng phòng không mới ở biển Đông. Kỳ thảo luận bàn tròn "Thế giới Trong tuần" ngày 11 tháng 12 năm 2013 nói rằng Trung Quốc chỉ mở vùng nhận dạng phòng không đó khi có đủ lực lượng hải quân tuần tra đến tận Trường Sa, Singapore. Nay là lúc Trung Quốc ráo riết chuẩn bị cho cả hải quân lẫn không quân khả năng tuần tra và kiển soát không phận hải phận biển Đông, bằng những hoạt động được nói đến trong lần thảo luận này.
Nhóm đảo tân tạo còn có lợi cho Trung Quốc về kinh tế, trong lãnh vực giao thông chuyển vận và ngư nghiệp. Từ tháng 7
air-strip-2
Phi cơ chiến đấu của Trung Quốc trên đường bay trên đá Chữ Thập tân tạo- Ảnh mô phỏng
năm ngoái Bắc Kinh đã khuyến khích ngư dân của họ mở rộng ngư trường về phía nam, nói là các tàu cá sẽ được tiếp liệu ở Trường Sa.

Dựa vào đâu?

Trung Quốc có thể sẽ áp đặt vùng nhận dạng phòng không trên biển Đông, đồng thời mở rộng hoạt động quân sự và ngư nghiệp trên vùng biển sân trước của Việt Nam. Đến lúc đó Việt Nam sẽ phải có phản ứng, nhưng dựa vào đâu để phản ứng, thì đó là câu hỏi mà toàn dân toàn quân Việt Nam sẽ buộc đảng Cộng sản cầm quyền phải trả lời thích đáng.
Liệu đảng Cộng sản có thể nói "dựa vào chính mình" trong một quốc gia mà chính trường rối loạn với trận đấu đá giết chóc nhau công khai để tranh giành quyền lực, người dân thì bị cướp đoạt, áp chế một cách tàn bạo không nương tay?

Tin, bài liên quan

__._,_.___

Posted by: Dien bien hoa binh 

Trung Quốc nói các hoạt động ở Biển Đông là ‘kiềm chế’



Trung Quốc nói các hoạt động ở Biển Đông là ‘kiềm chế’

Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói rằng các hoạt động của Bắc Kinh trên những bãi cạn và các vùng biển xung quanh là ‘hợp lý, chính đáng, hợp pháp’ và thái độ của Bắc Kinh là ‘kiềm chế và có trách nhiệm’
Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Trung Quốc Hồng Lỗi nói rằng các hoạt động của Bắc Kinh trên những bãi cạn và các vùng biển xung quanh là ‘hợp lý, chính đáng, hợp pháp’ và thái độ của Bắc Kinh là ‘kiềm chế và có trách nhiệm’
·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

Thẩm phán Philippines: TQ không có quyền tuyên bố chủ quyền lịch sử ở Biển Đông

Thẩm phán Carpio nói những bản đồ cổ của Trung Quốc từ đời nhà Tống và nhà Thanh đều ghi rõ lãnh thổ cực nam của Trung Quốc luôn là đảo Hải Nam

Ðường dẫn

27.02.2015
Trung Quốc khẳng định các hoạt động của họ ở Biển Đông là ‘kiềm chế’ và ‘có trách nhiệm’.
Tuyên bố của Bắc Kinh được đưa ra sau khi Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ tố cáo việc Bắc Kinh mở rộng các tiền đồn trong khu vực là một nỗ lực ‘gây hấn’ để đòi hỏi chủ quyền.
AP dẫn lời phát ngôn nhân Bộ Ngoại giao Trung Quốc, Hồng Lỗi, ngày 27/2 nói rằng các hoạt động của Bắc Kinh trên những bãi cạn và các vùng biển xung quanh là ‘hợp lý, chính đáng, hợp pháp’ và thái độ của Bắc Kinh là ‘kiềm chế và có trách nhiệm.’
Một ngày trước đó, Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ James Clapper, trước Ủy ban Quân lực Thượng viện đã vạch rõ việc Trung Quốc khuếch trương các tiền đồn để phục vụ cho tàu bè trú đóng và cho các đường băng có thể có. Phát biểu của ông Clapper nêu bật quan ngại của Hoa Kỳ về hoạt động cải tạo đất của Bắc Kinh có thể châm ngòi căng thẳng với các nước láng giềng.
Giám đốc Tình báo Clapper nói việc Trung Quốc dành chủ quyền trên 80% diện tích Biển Đông là ‘đòi hỏi  quá đáng.’
Đáp lại, người phát ngôn Bộ ngoại giao Trung Quốc nói Bắc Kinh hy vọng Hoa Kỳ ‘thận trọng hơn’ trong vấn đề này. Ông Hồng Lỗi nhấn mạnh ‘Không một nước nào được quyền đưa ra những tố cáo vô căn cứ.’
Trung tâm Nghiên cứu Chiến lược và Quốc tế Hoa Kỳ CSIS tuần qua cho biết Việt Nam, Malaysia, và Đài Loan trong nhiều năm qua đã bồi đắp các bãi đất hiện hữu ở Biển Đông trong khi Philippines đang dự tính nâng cấp một sân bay và một bến tàu trên một hòn đảo mà họ chiếm đóng. Tuy nhiên, vẫn theo CSIS, cách mà Trung Quốc thay đổi đáng kể kích cỡ và cấu trúc của các thực thể đất đai ở Biển Đông là ‘bất thường.’
Năm ngoái, Trung Quốc bắt đầu công trình thi công lớn ở bãi Gaven, xây một đảo nhân tạo mới rộng hơn 7 ha.
CSIS cho hay trên hòn đảo mới này dường như có một tháp phòng không.

Nguồn: AP/ANI/The Guardian

Mỹ tung máy bay tuần thám hiện đại nhất ra Biển Đông


Mỹ tung máy bay tuần thám hiện đại nhất ra Biển Đông
media




Máy bay P-8 Poseidon của Mỹ. Ảnh chụp ngày 16/04/2014.Reuters

Vào lúc mối quan ngại trước việc Trung Quốc tăng tốc bồi đắp đảo nhân tạo ở Biển Đông ngày càng tăng, Hoa Kỳ đã có phản ứng cụ thể. Một sĩ quan cao cấp của Hải quân Mỹ ngày 27/02/2015 tiết lộ : Hoa Kỳ đã bắt đầu cho loại trinh sát cơ tối tân nhất của mình là P-8A Poseidon đi tuần tra trên khu vực Biển Đông.
Đây là lần đầu tiên, sự tồn tại của các phi vụ trinh sát này được công khai xác nhận. Trong một thông báo, Hải quân Hoa Kỳ cho biết là các chiếc P-8A đã được triển khai tại Philippines trong ba tuần lễ từ đầu tháng Hai cho đến ngày 21/02/2015. Các chiếc phi cơ này đã thực hiện hơn 180 giờ bay trên vùng Biển Đông.
Trước đây, từ năm 2012, Mỹ từng dùng loại trinh sát cơ P-3C Orion cũng từ Philippines bay ra tuần tra vùng Biển Đông, nhưng đây là lần đầu tiên mà P-8A được sử dụng.
Trong tư cách là đồng minh của Philippines tại châu Á, Hoa Kỳ đã cam kết chia sẻ ngay cho Manila thông tin « tức thời » về những gì xảy ra trong vùng biển của Philippines mà các phi vụ trinh sát thu thập được. Các thông tin này rất quan trọng vào lúc Trung Quốc gia tăng các hoạt động bồi đắp đảo đá tại Biển Đông.
Trung Quốc đòi quyền sở hữu trên hầu như toàn bộ Biển Đông, bất chấp tuyên bố chủ quyền của 4 láng giềng Đông Nam Á (Philippines, Việt Nam, Malaysia, Brunei) và Đài Loan. Hoa Kỳ luôn luôn xác định không thiên vị bên nào trong cuộc tranh chấp, nhưng thường xuyên kêu gọi các bên đừng xây cất gì thêm tại các vùng tranh chấp. ,  Trung Quốc phớt lờ trước những khuyến cáo của Washington.
Sự kiện Hải quân Mỹ tung phi cơ P-8A vào các phi vụ trinh sát tại Biển Đông đã rất được quân đội Philippines hoan nghênh. Theo hãng tin Anh Reuters, Đại tá Restituto Padilla, một phát ngôn viên của lực lượng vũ trang Philippines đã tỏ ý hy vọng rằng Hoa Kỳ sẽ cho triển khai nhiều phi cơ trinh sát hơn trong khu vực.

Chiến binh người Kurd chiếm được thành trì chủ chốt của IS

Cacs chiến binh người Kurd ăn mừng tại Qamishli việc thành phố Tal Hamis được giải phóng.
Cacs chiến binh người Kurd ăn mừng tại Qamishli việc thành phố Tal Hamis được giải phóng.
·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

28.02.2015
Những chiến binh người Kurd cho biết họ đã "giải phóng" một thành phố ở đông bắc Syria được coi là thành trì quan trọng của những kẻ chủ chiến Nhà nước Hồi giáo.
Một phát ngôn viên của Đơn vị Bảo vệ Nhân dân, hay YPG, xác nhận với VOA rằng những chiến binh người Kurd đã chiếm giữ thành phố Tal Hamis thuộc tỉnh Hassakeh.
"Chiến thắng này là một cú giáng mạnh vào những kẻ khủng bố IS vì chúng tổ chức những cuộc tấn công nhắm vào Qamishli và các thành phố khác của người Kurd ở Syria và khu vực Sinjar ở Iraq từ thành phố này,"  ông nói với Ban tiếng Kurdish của VOA. "Trong chiến dịch này, một số lượng đáng kể người Ả-rập địa phương cũng giúp đỡ họ bởi vì mọi người nhận ra rằng sống dưới tổ chức khủng bố này không có tương lai."
Đài quan sát Nhân quyền Syria cho biết ít nhất 175 tay súng Nhà nước Hồi giáo đã bị tiêu diệt bởi những chiến binh người Kurd và những cuộc không kích của liên minh do Mỹ dẫn đầu trong những ngày gần đây.
Trong khi đó, Ban tiếng Kurdish của VOA cho biết ít nhất chín người thiệt mạng khi những kẻ chủ chiến Nhà nước Hồi giáo thực hiện một vụ đánh bom gần một nhà thờ ở làng Ghibsh, gần thành phố Tal Tamr. Ít nhất bốn người đã bị bắt cóc.
Hồi đầu tuần này, những chiến binh Nhà nước Hồi giáo đã tấn công 11 ngôi làng của người Assyria theo Kitô giáo trong khu vực Tal Tamr, nơi mà Nhà nước Hồi giáo được cho là đã bắt đi 220 người. Giám đốc Rami Abdurrahman của Đài quan sát Nhân quyền Syria nói với VOA rằng những người này giờ đã được đưa tới vùng núi Abd al-Asiz, nơi họ vẫn bị giam cầm.
Bộ Ngoại giao Mỹ tuần này kêu gọi phóng thích ngay lập tức những Kitô hữu người Assyria bị bắt cóc.


Tình báo Mỹ lo ngại Trung Quốc mở rộng các đảo ở Biển Đông


Tình báo Mỹ lo ngại Trung Quốc mở rộng các đảo ở Biển Đông

Firepower: Battle Tanks



image





Preview by Yahoo


mediaJames Clapper, giám đốc cơ quan Tình báo Quốc gia Mỹ, ra điều trần trước Thượng viện Hoa Kỳ. Ảnh ngày 26/09/2013REUTERS

Lãnh đạo tình báo Mỹ cho rằng việc Trung Quốc mở rộng các « tiền đồn » ở Biển Đông là một phần của nỗ lực « hung hăng » nhằm xác quyết chủ quyền của nước này trên Biển Đông.

Giám đốc cơ quan Tình báo Quốc gia Mỹ James Clapper đã tuyên bố như trên ngày 26/02/2015, trong cuộc điều trần về các mối đe dọa toàn cầu trước Ủy ban Quân vụ Thượng viện Hoa Kỳ. Tuyên bố của ông Clapper phản ánh mối quan ngại của Washington về những hoạt động của Bắc Kinh bồi đắp các đảo trên Biển Đông, để có thể xây các bến đậu cho tàu thuyền hoặc các sân bay trên đó. Những hoạt động này, theo Hoa Kỳ có nguy cơ gây thêm căng thẳng giữa Trung Quốc với các nước láng giềng.

Giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ nói : « Mặc dù đang cố đạt đến mối quan hệ song phương ổn định với Hoa Kỳ, Trung Quốc lại không ngại gây ra những căng thẳng song phương và khu vực để theo đuổi lợi ích của họ, đặc biệt là trên các vấn đề chủ quyền biển ».
Ông Clapper mô tả đường 9 đoạn, còn gọi là đường « lưỡi bò », mà Bắc Kinh tự vẽ lên ở Biển Đông, bao phủ hơn 80 % diện tích vùng này, là « quá đáng ».

Tuy Hoa Kỳ không phải là quốc gia có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, nhưng Washington tuyên bố có lợi ích quốc gia trong việc giải quyết hòa bình các tranh chấp ở khu vực có tính chất trọng yếu đối với thương mại thế giới này. Trung Quốc thì vẫn cho rằng chủ quyền của họ trên Biển Đông là « có cơ sở lịch sử » và vẫn phản đối điều mà Bắc Kinh cho là sự can thiệp của Mỹ.

Trong cuộc điều trần hôm 26/02/2015, chủ tịch ủy ban Quân vụ, thượng nghị sĩ John McCain đã đưa ra những hình ảnh vệ tinh thương mại cho thấy Trung Quốc tiến hành hoạt động mở rộng Đá Gaven, quần đảo Trường Sa trong năm qua. Ông cho biết đảo được mở rộng của Trung Quốc có thể cho phép Bắc Kinh triển khai các loại vũ khí, bao gồm vũ khí phòng không và các phương tiện quân sự khác.

Theo lời giám đốc Tình báo Quốc gia Mỹ Clapper, Trung Quốc vẫn đang trong giai đoạn xây dựng, nên hiện chưa rõ Bắc Kinh có thể triển khai vũ khí hoặc lực lượng nào đến khu vực này. Ông cho rằng hoạt động bồi đắp đảo của Trung Quốc trong một năm rưỡi năm qua, kết hợp với việc hạ đặt giàn khoan gần các đảo tranh chấp là một « xu hướng đáng lo ngại ».

Lãnh đạo đối lập có tiếng của Nga bị ám sát ở Moscow

Cảnh sát Nga kiểm tra thi thể của ông Boris Nemtsov tại Quảng trường Đỏ ở Moscow, ngày 28 tháng 2, 2015
Cảnh sát Nga kiểm tra thi thể của ông Boris Nemtsov tại Quảng trường Đỏ ở Moscow, ngày 28 tháng 2, 2015
·    
·    
·    
·  

Tin liên hệ

Cập nhật: 28.02.2015 10:45
Lãnh đạo đối lập chủ chốt và cựu Phó Thủ tướng Nga, Boris Nemtsov, đã bị bắn chết vào tối thứ Sáu ở trung tâm Moscow.
Bộ Nội vụ cho biết ông Nemtsov 55 tuổi đã bị bắn bốn phát từ một chiếc xe màu trắng chạy ngang qua khi ông đang đi bộ trên một cây cầu bắc qua sông Moscow ngay bên cạnh Điện Kremlin.
Cảnh sát cho biết ông Nemtsov khi đó đang đi cùng một người phụ nữ đến thăm ông từ Ukraine. Người phụ nữ này không bị thương và đang được cảnh sát đang thẩm vấn.
Sau khi cảnh sát đưa thi thể đi, những người khóc thương đã đến đặt hoa và thắp nến tại nơi mà ông Nemtsov bị bắn chết.
Hãng thông tấn chính thức Itar-Tass nói rằng Tổng thống Vladimir Putin đã được thông báo "ngay lập tức" về cái chết của ông Nemtsov và rằng Điện Kremlin sẽ giám sát việc điều tra.
Một phát ngôn viên của Tổng thống Putin cho biết ông Putin nói vụ việc trông giống như một vụ sát nhân vì tiền mà có thể là một sự khiêu khích trước khi diễn ra một cuộc tuần hành của phe đối lập vào Chủ nhật.
Tổng thống Mỹ Barack Obama đã lên án vụ sát nhân là "tàn bạo" và kêu gọi Nga thực hiện một cuộc điều tra nhanh chóng và vô tư.

‘Sự tận tụy can trường’
"Tôi ngưỡng mộ sự tận tụy can trường của Nemtsov đối với cuộc đấu tranh chống tham nhũng ở Nga," Tổng thống Obama nói trong một thông cáo."Nemtsov là người ủng hộ không mệt mỏi cho đất nước của mình, tìm kiếm cho những người dân Nga của ông những quyền mà tất cả mọi người đáng được hưởng."
Boris Nemtsov là một trong những người chỉ trích ông Putin gay gắt và lớn tiếng nhất ở Nga.
Boris Nemtsov là một trong những người chỉ trích ông Putin gay gắt và lớn tiếng nhất ở Nga.


Cựu Đại sứ Mỹ tại Nga Michael McFaul nói với Ban Tiếng Nga của VOA rằng vụ sát hại ông Nemtsov là một mất mát vô cùng to lớn cho tất cả những người hy vọng vào một nước Nga hùng mạnh, thịnh vượng và dân chủ.

Ông McFaul nói những người Nga theo chủ nghĩa dân tộc cáo buộc ông Nemtsov là kẻ phản bội và tay sai của Mỹ đang "đùa với lửa."

Nhà lãnh đạo đối lập Nga Mikhail Kasyanov nói với các phóng viên rằng: "Việc một nhà lãnh đạo của phe đối lập có thể bị bắn ngay bên cạnh bức tường của Điện Kremlin thật ngoài sức tưởng tượng. Chỉ có một phiên bản: ông ấy bị bắn vì nói lên sự thật."

Chỉ vài giờ trước khi bị ám sát, ông Nemtsov lên sóng đài phát thanh Ekho Moskvy của Nga, hối thúc người dân Moscow xuống đường tham gia cuộc tập hợp của phe đối lập vào Chủ Nhật.
Trong lời bình luận mạnh mẽ cuối cùng nhắm vào Tổng thống Putin, ông Nemtsov gọi cuộc chiến tranh ở Ukraine là "chính sách điên rồ, hung hăng, và chết chóc."

"Đất nước cần cải cách chính trị," ông Nemtsov nói. "Khi quyền lực tập trung trong tay của một người và người này cai trị vĩnh viễn, điều này sẽ dẫn đến một thảm họa tuyệt đối."
Thông tín viên Daniel Schearf của VOA ở Moscow nói có phần chắc cuộc biểu tình sẽ lớn hơn nhiều so với dự định và nói phe đối lập có thể sẽ cáo buộc Điện Kremlin dính líu vào vụ sát hại ông Nemtsov.

Ông Nemtsov từng giữ chức phó thủ tướng trong những năm 1990 và nhiều nhà quan sát người Nga dự đoán ông sẽ kế nhiệm Tổng thống Boris Yeltsin khi đó.

Sau khi tổng thống Yeltsin chọn Vladimir Putin làm người kế nhiệm và sau khi ông Putin đắc cử vào năm 2000, ông Nemtsov trở thành một trong những người chỉ trích ông Putin gay gắt và lớn tiếng nhất ở Nga, đặc biệt là kể từ cuộc chính biến hồi năm ngoái ở Ukraine.

Vào tháng 9, ông Nemtsov nói với thông tín viên Daniel Schearf của VOA rằng ông Putin muốn phục thù về việc tổng thống thân Nga của Ukraine bị lật đổ.

Ông cho biết ông Putin sợ những gì xảy ra ở Ukraine có thể xảy ra ở Nga và xem một nước Ukraine thân phương Tây là mối đe dọa cho quyền lực của chính ông ta.

Hội đồng Bảo an LHQ họp khẩn về Ukraina
mediaXe bọc thép của quân đội Ukraina rút khỏi thành phố Debaltseve. Ảnh ngày 26/02/2015.REUTERS/Gleb Garanich
Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc họp khẩn cấp về xung đột ở Ukraina ngày 27/02/2015. Các bên thảo luận về lệnh ngưng bắn, nói chung hiện đang được tôn trọng, vào lúc phiến quân thân Nga và chính quyền Kiev tiếp tục rút vũ khí hạng nặng ra khỏi miền Đông.

Họp lại theo yêu cầu của Pháp và Đức, Hội đồng Bảo an sẽ nghe báo cáo của Tổ chức An ninh và Hợp tác châu Âu, tổ chức hiện có các đoàn quan sát viên giám sát lệnh ngưng bắn ở miền Đông Ukraina. Sau đó, Hội đồng Bảo an sẽ họp kín.

Tại chỗ, tình hình trong ngày 27/02/2015 vẫn yên tĩnh. Lệnh ngưng bắn được ban hành từ ngày 15/02 có vẻ được tôn trọng trong những ngày qua. Cả phát ngôn viên quân đội Ukraina lẫn phiến quân thân Nga đều tuyên bố tiếp tục rút các vũ khí hạng nặng khỏi chiến tuyến ở miền Đông. Từ thành phố cảng Marioupol, thông tín viên RFI Anastasia Becchio gởi về bài tường trình.
« Tại cảng công nghiệp lớn với 500 ngàn dân này, hai nhà máy luyện thép, nguồn sử dụng nhân công chủ yếu tại đây, có thể sẽ là mục tiêu tấn công kế tiếp của phiến quân thân Nga. Lực lượng này đã nói thẳng rằng sớm muộn gì Marioupol phải trở về tay của họ, nhưng hiện chưa tấn công ngay, mà muốn giành lại thành phố này qua thương lượng.

Tình hình hiện giờ đang yên tĩnh. Hai bên đã bắt đầu rút các khẩu pháo 110 milimét khỏi chiến tuyến. Tuy vậy, chính quyền Kiev đã báo trước sẵn sàng xét lại lịch trình rút vũ khí, nếu phiến quân mưu toan tấn công vào Marioupol.

Mặt trận hiện chỉ nằm cách thành phố này vài chục km và tình hình tại đây vẫn còn rất bất ổn. Hôm qua, 26/02/2015 đã có giao tranh bằng súng tự động ở một nơi cách Marioupol khoảng 30 km. Quân đội Ukraina tố cáo phiến quân thân Nga tập trung rất đông quân chung quanh thành phố này. Theo lời phát ngôn viên quân sự Ukraina, trong vòng 24 tiếng đồng hồ đã có 7 máy bay không người lái bay bên trên thành phố này.

Dân chúng tại đây phản ứng dè dặt trước việc hai bên rút vũ khí hạng nặng. Một số người sợ rằng thành phố này sẽ không còn phương tiện tự vệ trong trường hợp bị tấn công. Những người khác thì nghĩ rằng Marioupol có thể sẽ là món hàng mặc cả giữa phiến quân với chính quyền Kiev. »