Việt
- Trung và sự thiếu vắng niềm tin
Tiến sĩ Katherine Tseng Gửi cho BBC từ Singapore
- 29 tháng 12 2014
Quan hệ giữa Trung Quốc và Việt Nam đi kèm một
loạt vấn đề phức tạp, vượt ra ngoài tranh chấp trên Biển Nam Trung Hoa. Tuy
vậy, chúng gắn kết với nhau đủ chặt để một biến đổi nhỏ chỗ này cũng sẽ tạo ra
hiệu ứng lan truyền ở chỗ khác.
Nói ngắn gọn, thiếu vắng
niềm tin là yếu tố lớn đằng sau mối quan hệ này. Việt Nam đối diện thách thức
kép: bảo vệ chủ quyền lãnh thổ trong lúc quan hệ với Trung Quốc xấu đi. Thách thức
đầu tiên có thể khiến Hà Nội mất uy tín chính trị, còn thách thức sau có thể
tạo ra bất ổn cho sự phát triển chung của Việt Nam.
'Thoát Trung' về
kinh tế?
Thời gian qua, quan hệ
kinh tế của Việt Nam với Trung Quốc ngày càng quan trọng, không chỉ giúp phát
triển kinh tế mà còn giúp Đảng Cộng sản cầm quyền kiểm soát chính trị.
Sau khi gia nhập WTO năm
2007, Việt Nam áp dụng chính sách kinh tế tự do hơn. Nhưng từ 2008, kinh tế
Việt Nam bị khó khăn vì lạm phát cao và tăng trưởng thấp.
Như thường xảy ra cho
các nền kinh tế đang phát triển khi gia nhập kinh tế toàn cầu, khủng hoảng của
Việt Nam khởi đầu do cơn sốt vốn đầu tư nước ngoài dẫn tới việc cho vay vô tội
vạ, kéo theo là lạm phát nặng nề. Chính phủ buộc phải giảm chi tiêu từ đầu năm
2011. Nay khó vay vốn hơn, các doanh nghiệp phải đi đòi nợ khách hàng hoặc trả
tiền lãi.
Tham vọng của Thủ tướng
Nguyễn Tấn Dũng, muốn đẩy doanh nghiệp nhà nước đi theo con đường của các tập
đoàn Hàn Quốc, cũng thất bại.
Doanh nghiệp nhà nước
Việt Nam đi vào các lãnh vực mà họ không mấy hiểu biết, khiến họ nợ đầm đìa.
Kết quả là những ngân hàng cho doanh nghiệp nhà nước vay phải ôm các cục nợ
xấu, mà theo thống kê hồi tháng Năm 2013, chiếm đến 15% tổng tiền cho vay.
Để đối phó nợ gia tăng,
vào năm 2012, biện pháp táo bạo nâng lãi suất để kiểm soát lạm phát (có lúc lên
đến 28%) đã khiến tăng trưởng kinh tế thấp xuống như hồi đầu thập niên 1990.
Khó khăn lại càng chồng
chất vì vấn nạn tham nhũng, khiến Việt Nam trở nên không hấp dẫn với nhà đầu tư
nước ngoài và có thể gặp bất ổn xã hội. Niềm tin vào khả năng lèo lái kinh tế
của Đảng bị sa sút nghiêm trọng.
Mặc dù Hà Nội cố gắng
xây dựng quan hệ với nhiều nước, quan hệ đầm ấm với Trung Quốc vẫn không thể thiếu
để họ tồn tại, đặc biệt về kinh tế. Giao thương song phương đạt 50 tỉ đôla năm
2013 trong khi giao thương Việt – Mỹ chỉ khoảng 29.7 tỉ đôla cùng năm đó.
Thách thức cầm
quyền
Ngoài khó khăn kinh tế,
việc cầm quyền còn gặp khó khăn vì cuộc đấu tranh với người dân bất mãn và mâu
thuẫn dai dẳng giữa tăng trưởng và ổn định, những khó khăn mà đã đẩy nhanh cuộc
đấu đá nội bộ trong đảng.
Bản chất cội rễ của
chính trị Việt Nam là chia sẻ quyền lực ở tầng cao nhất. Nhưng sự chia rẽ trở
nên sâu sắc khi Thủ tướng và Tổng Bí thư, hai nhân vật trong ‘Tứ trụ’, đi tìm
những hướng khác nhau nhằm củng cố quyền lực. Vị Thủ tướng tỏ ra hướng đến
phương Tây do Mỹ dẫn đầu, còn Tổng Bí thư lại khẳng định quan hệ đồng chí lịch
sử với Trung Quốc.
Mâu thuẫn cũng tồn tại
giữa tầng lớp cầm quyền và dân bị trị. Tranh luận nóng đã xảy ra bên trong cũng
như giữa Đảng và dân. Nó sâu sắc hơn là mâu thuẫn bán công khai giữa Thủ tướng
và Chủ tịch nước. Cuộc tranh đấu chính thực ra là xoay quanh hướng đi của đất
nước – giữa những người muốn củng cố hệ thống Đảng và những người muốn một hệ
thống dân chủ và đa nguyên hơn.
Người ta có thể cho rằng
chuyến thăm Trung Quốc của ông Lê Hồng Anh cuối tháng Tám 2014 có lẽ nhằm mang
thông điệp của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhờ Trung Quốc giúp đỡ. Ông Trọng
được cho rằng đang thất thế trong cuộc đấu tranh với Thủ tướng thân phương Tây.
Một khía cạnh thuyết phục về chuyến thăm của ông Lê Hồng Anh là
việc giảm mâu thuẫn với Trung Quốc đóng vai trò chủ chốt để Đảng Cộng sản Việt
Nam còn tồn tại và cầm quyền.
Vì thế Việt Nam ở trong
tình trạng đi khập khiễng. Phát triển đất nước gặp khó vì sự chia rẽ trong dư
luận trong nước. Khó khăn lại chồng chất vì thách thức kép, vừa phải bảo vệ chủ
quyền ở Biển Nam Trung Hoa và lại phải duy trì nguyên trạng trong chính sách
ngoại giao.
Nhìn theo cách này,
thăng trầm thay đổi trong chính sách Biển Đông của Hà Nội giúp giải thích bằng
cách nào các đe dọa bên ngoài, dù là thật hay tự nghĩ ra, có thể khiến thay đổi
các tính toán chiến lược và chính trị trong sự phát triển quốc gia của Việt
Nam.
Luật pháp, tuyên
truyền và lịch sử
Việt Nam biết rằng các
yêu sách chủ quyền của họ kém hơn so với của Trung Quốc. Trung Quốc cung cấp
bằng chứng lịch sử lớn hơn nhiều, trải dài đến tận thời cổ đại khi Việt Nam còn
chưa là quốc gia – nhà nước.
Có vẻ như Hà Nội đã
chuyển hướng nhấn mạnh tuyên truyền để cổ vũ hình ảnh của Việt Nam, là nạn nhân
trước sức mạnh gia tăng và tham vọng xấu xa của Trung Quốc ở Biển Nam Trung
Hoa.
Việt Nam đã nêu vấn đề
ra tại hội nghị thượng đỉnh Asean nhằm xây dựng mặt trận thống nhất chống Trung
Quốc. Tháng Năm 2009, Việt Nam cùng Malaysia nộp lên Ủy ban về Ranh giới và
thềm lục địa của Liên Hiệp Quốc báo cáo chung về khu vực thềm lục địa.
Về mặt học thuật, đã có
nỗ lực của giới học giả nhằm công bố nghiên cứu, báo cáo phân tích, bình luận
ủng hộ Việt Nam. Vào tháng 11 năm 2013, Việt Nam tổ chức hội nghị quốc tế lần
thứ năm, với sự tham dự của hơn 200 nhà nghiên cứu, trí thức từ khắp thế giới.
Đồng thời, có ý kiến nói
Hà Nội đã tận dụng dư luận và chủ nghĩa dân tộc. Một số người cho rằng trong
nhiều lần, Hà Nội đã nhượng bộ, hay ít nhất là không chịu kiềm chế những người
biểu tình về vấn đề biển đảo.
Nỗ lực của Việt Nam đã
có hiệu quả. Dư luận quốc tế dần dần ngả theo Hà Nội. Người dân Việt Nam cũng
chia sẻ tình cảm dân tộc ủng hộ chính phủ.
Chủ nghĩa dân tộc cũng
là con dao hai lưỡi. Khi chơi lá bài dân tộc, Hà Nội có nguy cơ làm suy sụp
kinh tế vốn gắn với Trung Quốc, và làm xấu đi quan hệ với các nước láng giềng
mà nói chung không muốn để chuyện Biển Nam Trung Hoa cản trở sự phát triển của họ.
Tranh chấp Biển Nam
Trung Hoa rõ ràng cho ta thấy bức tranh của những quyền lợi trái ngược, và
những tính toán đôi khi mâu thuẫn.
Cách quần chúng nhìn vấn
đề này cũng phụ thuộc nặng nề vào những lợi ích của các phe nhóm mà có quyền
lực kiểm soát việc tiếp cận vấn đề.
Tư duy tỉnh táo và kiềm
chế vẫn là điều quan trọng, vì đó chính là những điều thiếu vắng trong vùng.
Bài viết thể hiện quan điểm và cách hành văn
riêng của tác giả, hiện làm việc tại Viện Đông Á, Đại học Quốc gia Singapore.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment