anh truong Anhdalat23@yahoo.com
To
9 Jun
Học giả Trung Quoc nói
thẳng về biển Đông
Để giúp dư luận và nhân
dân Trung Quốc hiểu rõ sự thật, học giả Lý Lệnh Hoa đã công bố nhiều bằng
chứng, chứng cứ về nguồn gốc các biển đảo trên biển Đông và đường lưỡi bò sai
trái, nguy hiểm.
Nhà nước Trung Quốc ngày càng mở rộng hành động độc chiếm biển
Đông, xâm phạm chủ quyền Việt Nam. Ở trong nước, nhà nước Trung Quốc không
ngừng tuyên truyền cho người dân bằng những thông tin ngụy tạo, sai sự thật như
"Việt Nam vi phạm chủ quyền Trung Quốc", "Việt Nam ức hiếp Trung
Quốc", "Nước nhỏ ăn hiếp nước lớn", v.v...
Song không phải vì thế mà tất cả người dân Trung Quốc đều sai lầm
tin vào những lời tuyên truyền sai trái đó.
Học giả Lý Lệnh Hoa
Từ thiền sư Thích Đại Sán đến học giả Lý Lệnh Hoa
Thế kỷ 17, thiền sư Thích Đại Sán đã qua Việt Nam, ghi chép đầy đủ
và trung thực chủ quyền của nhà Nguyễn ở Đàng Trong với Vạn Lý Trường Sa. Lúc
ấy, vương triều Trung Hoa đang "quay lưng ra biển", chỉ quan tâm đến
lục địa. Song những ghi chép, quan sát, cảm nhận của vị thiền sư Trung Quốc danh
tiếng đã cho thế giới và người Trung Quốc góc nhìn về sự thật ở biển Đông và
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa.
Vào đầu thế kỷ 20, Trung Quốc bắt đầu "dòm ngó" và nhảy
vào cưỡng chiếm Hoàng Sa, một số quần đảo Trường Sa. Và, tham vọng chưa dừng tại
đây, "đường lưỡi bò" được vẽ ra chiếm gần trọn biển Đông từ "một
phút giây hứng khởi bất thường của một viên chức Trung Hoa Dân Quốc" đã
trở thành chính sách bành trướng của nhà nước Trung Quốc xuyên suốt từ giữa thế
kỷ 20 đến thế kỷ 21.
Tuy nhiên, ngay tại chính TQ, vẫn có những người dũng cảm, bất
chấp nguy hiểm để nói lên sự thật với nhân dân, đồng bào của mình và nhân dân
trên thế giới. Một trong số đó là học giả Lý Lệnh Hoa.
Học giả Lý Lệnh Hoa sinh năm 1946. Từ năm 1964 đến 1970 học khoa
Hải dương học tại Học viện Sơn Đông. Sau khi ra trường, từ năm 1970 đến 2006
ông công tác tại Trung tâm thông tin Hải Dương quốc gia (ở Thiên Tân).
Nhờ môi trường công tác tại Trung tâm thông tin Hải dương quốc
gia, ông đã tiếp cận và nghiên cứu nhiều tài liệu lịch sử, tài liệu khoa học về
biển đảo và các vấn đề xung quanh liên quan. Từ đó, ông liên tục nói lên sự
thật, chân lý và lẽ phải. Ông có viễn kiến sâu sắc, có trách nhiệm với đất nước
và nhân dân Trung Quốc cũng như các nước láng giềng.
Ngay từ đầu ông đã khẳng định: "Trung Quốc muốn phát triển
kinh tế và nâng cao uy tín thì cần phải tích cực và chủ động giải quyết vấn đề
Nam Hải (Biển Đông - TG), phải xác lập được cơ chế đàm phán, thương lượng song phương
và đa phương hữu hiệu, được các nước liên quan cùng chấp nhận, thiết thực sớm
chấm dứt cục diện xung đột dài ngày ở Nam Hải (Biển Đông - TG).
Những bài viết sắc bén, có căn cứ khoa học, pháp lý và lịch sử
phản bác lại lập luận sai trái của Trung Quốc về Biển Đông của ông không được
các báo chính thống của Trung Quốc đăng tải. Do đó, ông đã tích cực sử dụng
blog cá nhân để truyền tải đến nhân dân Trung Quốc sự thật và lẽ phải.
Mới đây
nhất khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 vào vùng đặc quyền kinh tế của
Việt Nam, ông đã nghiêm khắc cảnh báo tai họa cho đất nước và nhân dân của
mình: "Trung Quốc đang tự biến mình thành kẻ thù của các nước láng giềng
và thế giới văn minh".
Trên blog cá nhân ngày 21/5/2014, Lý Lệnh Hoa viết: "Truyền
thông Trung Quốc đã đăng tải quá nhiều phát biểu vô trách nhiệm về những vấn đề
về liên quan đến biển Đông. Họ chẳng hiểu gì Công ước 1982 hay Công ước Liên
hiệp quốc về Luật biển năm 1982 (UNCLOS), họ bỏ qua lý lẽ và thậm chí coi
thường Công ước đã ký. Những gì họ nói, họ biết về "đường lưỡi bò" là
vô cùng cẩu thả.
Tất cả các đường ranh giới trên đất liền và hải phận trên thế
giới đều là những đường liền mạch, rõ ràng, còn "đường lưỡi bò" chỉ
là một vệt 9 đoạn đứt quãng quá mơ hồ..."
Và "Trung Quốc là một quốc gia lục địa. Từ xa xưa cho đến tận
đời nhà Minh, nhà Thanh, Trung Quốc vốn không quan tâm nhiều đến biển. Làm sao
lại có thể dám nói rằng, người Trung Quốc từ xa xưa đã vươn ra hoạt động trên
một vùng biển rộng đến hơn 200 vạn km2 mà Trung Quốc đang đòi hỏi hiện nay?
Đấy
là một sự ngụy tạo, bóp méo sự thật lịch sử".
Bản đồ đường lưỡi bò vẽ và viết bằng tay gốc bị phát hiện do một viên chức vẽ.
30 năm kiên trì sự thật
Để giúp dư luận và nhân dân Trung Quốc hiểu rõ sự thật, học giả Lý
Lệnh Hoa đã công bố nhiều bằng chứng, chứng cứ về nguồn gốc các biển đảo trên
biển Đông và đường lưỡi bò sai trái, nguy hiểm. Chính ông đã tìm ra nguồn gốc
ra đời "đường lưỡi bò" và gọi tác giả và cơ quan chuyên môn này là
"Ổ sáng tác ra đường lưỡi bò". Và, "Đường chín đoạn do tiền nhân
của chúng ta vạch ra không có kinh độ, vĩ độ cụ thể, cũng chẳng có căn cứ pháp
lý".
Chính nhờ ông mà cả thế giới biết xuất xứ về "đường lưỡi
bò" (Cửu tuyến đoạn) là một sản phẩm do một công chức bình thường của Trung
Quốc vẽ sau một chuyến đi qua biển Đông.
Ông nhiều lần phát biểu công khai:
"Đường 9 đoạn" chỉ là đường ảo, trong khi đường biên giới trên biển
phải được quốc tế thừa nhận là có thực". Khi Trung Quốc xây dựng thành phố
Tam Sa trên quần đảo Hoàng Sa đánh chiếm của Việt Nam, ông thẳng thừng tuyên
bố: "Không nên làm trò hề cho thế giới cười".
Ông đã dành gần cả cuộc đời nghiên cứu và công bố sự thật với mong
muốn "Không để Trung Quốc và nhân dân Trung Quốc ảo mộng".
Đặc biệt
từ năm 2005 đến nay, trước sự bành trướng ngày càng hung hăng của chính quyền
Trung Quốc, học giả Lý Lệnh Hoa đã nỗ lực không ngừng để cung cấp cho người dân
và giới nghiên cứu Trung Quốc những bằng chứng, lý lẽ, luật pháp quốc tế để
"lay tỉnh" mọi người thoát khỏi "ác mộng" và "đại
họa".
Ngày 14/6/2012, Viện nghiên cứu kinh tế Thiên Tắc Trung Quốc tổ
chức Hội thảo Tranh chấp biển Đông: Chủ quyền quốc gia và quy tắc quốc tế. Học
giả Lý Lệnh Hoa được mời tham gia cùng nhiều học giả, nhà nghiên cứu của Trung
Quốc.
Tại đây, ông đã thẳng thắn đánh giá hành vi của Trung Quốc trên
biển Đông như sau: "Không thể xỏ giày trước rồi mới đi tất". Ông đã
chứng minh cho các diễn giả thấy những sai trái của Trung Quốc khi dùng vũ lực
xâm chiếm cưỡng đoạt nhiều đảo và biển Đông. Chiếm xong rồi tìm cách
"chứng minh". Vì vốn không phải sự thật nên không chứng minh được,
đành phải viện dẫn nhiều dẫn chứng vu vơ, vô căn cứ.
Ông tỏ ra lo lắng cho cách hành xử của nhà nước Trung Quốc và
nhiều lần lên tiếng. Ông nói tại hội thảo : "Bởi vậy Bộ Ngoại giao và phía
quân đội (Trung Quốc) có lúc rất cứng rắn trên vấn đề này, tôi cảm thấy làm như
thế là xem xét vấn đề chưa chu toàn. Tôi đã viết rất nhiều thư gửi cho các cán
bộ liên quan của Bộ Ngoại giao (Trung Quốc - TG) nhưng cũng không có thư trả
lời..."
(Còn nữa)
Theo Duy Chiến
HONG SA TRƯỜNG SA Ở BIỂN ĐÔNG NHƯNG KHÔNG ÍT NGƯỜI VIỆT NAM HIỂU
RÕ VỀ 2 QUẦN ĐẢO NÀY
QUẦN ĐẢO TRƯỜNG SA
tka23 post
29/4/14
- BÌNH LUẬN TIN TỨC: Tại sao TT Obama không ghé qua Việt Nam ?
Người Pháp gọi là Archipel
des ile Spratley, người Anh, người Mỹ gọi là Spratley Islands hay Spratlies.
Trung cộng gọi là Nansha (Nam Sa) hay Nan Wei quần đảo. Philipines
gọi là Kalayaan. Nhật gọi là Shinan Guto.
Quần
đảo Trường Sa cách quần đảo Hoàng Sa tính đến đảo gần nhất là khoảng 350 hải
lý, đảo xa nhất là khoảng 500 hải lý, cách Vũng Tàu 305 và các Cam Ranh 250 hải
lý, cách đảo Phú Quốc 240 hải lý, cách Bình Thuận (Phan Thiết) 270 hải lý.
Quần đảo trải dài từ 6o 2’ vĩ B, 111o28’ vĩ
B, từ kinh độ 112 o Đ, 115 o Đ1.4) trong vùng biển chiếm khoảng 160.000 đến
180.000 km2. Biển tuy động nhưng diện tích các đảo, đá, bãi nổi trên mặt nước
lại rất ít, chỉ tổng cộng 11km2.
Về số lượng đảo theo thống kê của tiễn sĩ Nguyễn
Hồng Thao (Vụ Biển thuộc Ban Biên giới Chính Phủ) năm 1988 bao gồm 137 đảo, đá,
bãi (1.5) không kể 5 bãi ngầm thuộc thềm lục địa Việt Nam (gồm bãi Phúc Trần,
Huyền Trân, Quế Đường, Phúc Nguyên, Tứ Chính).
Theo thống kê của Pháp năm 1933 gồm 9 đơn vị
chính là các đảo, đá, bãi phụ cận. Philipines đã liệt kê mộ danh sách 53 đơn vị
gồm hòn đảo và cù lao trong một khu vực 976 dặm vuông. Căn cứ vào hải đồ vẽ năm
1979 của Cục Bản đồ Qân Sự Bộ Tổng Tham Mưu (Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt
Nam), quần đảo Trường Sa có thể chia ra làm chín cụm chính kể từ Bắc Xuống Nam:
1. Cụm Song Tử gồm 2 đảo, đá, 2 bãi:
Song Tử Đông (Northeast Cay, Pei Zi Dao hay Pei –tzu Tao (Trung cộng ),
Parola Isl,. (Phi) 11o 255’ vĩ B, 114o20’ kinh Đ).
Song Tử Tây (Southwest Cay, Nan Zi Dao Nan) hay Nan –tzu Tao ( Trung
cộng ), Pugad Isl., (phi) 11o255’ vĩ B, 114o kinh Đ)
Hai hòn đảo này sinh đôi nằm ở cực bắc của quần
đảo trường sa, ngang vĩ đọ với Phan Rang (NInh Thuận). Chính vì có vị trí này
mà đội Bắc Hải hoạt động ở vùng này từ cuối thể kỷ XVII lấy xuất đinh từ tỉnh
Bình Thuận. Trên đảo có những cây cao
trung bình, nhiều phân chim có thể chế biến thành phân bón. Vòng quanh hai đảo
này, về phía Đông và Nam chừng năm hải lý có nhiều mỏm đá ngầm. Rong biển mọc
nhiều ở đây.
Song Tử Đông hơi tròn, diện tích 20 acres, dài
900m, rộng 250m, cao độ 3m, có nhiều bãi cát và san hô xung quanh, nhiều cây
cối, một ít dừa. Năm 1963, Việt Nam
Cộng Hòa có dựng một bia chủ quyền. Philippines cho quân chiếm đóng từ năm 1968.
Song Tử Tây hình lưỡi liềm, diện tích nhỏ hơn
Song Tử Đông, dài 700m, rộng 300m, có nước ngọt, có một vườn dừa và nhiều cây
nhỏ. Có tháp rada thời Việt
Nam Cộng Hòa. Hiện Quân Đội Nhân Dân Việt Nam đang trấn giữ cả hòn đảo.
Cụm Song Tử còn có Đá Bắc (North Reef, Pei Jiao
hay Tung - Pei – Chiao (Trung cộng ) 11o28 vĩ B, 114o kinh Đ), Đá Nam
(South Reef, Nan Jiao hay Nai –lo- Chiao, 11o vĩ B, 114o18 kinh Đ)
Phía Đông cụm Song Tử còn có bãi cạn Đinh Ba ở phía Bắc ( Trident Shoal, Yong deng Ansha hay Yung –teng An –sha (Trung cộng ), TatLong, Tulis Shoal (Phi), 11o20 vĩ B, 114o42 kinh Đ) và bãi Núi Cầu (Lys Shoal, Lesi Ansha (Trung cộng ), Bisugo Shoal (Phi), 11o205 vĩ B, 114o35 kinh Đ phía Nam.
2. Cụm đảo Thị Tứ
Ở phía Nam cụm Song Tử, gồm đảo Thị Tứ và các
bãi đá
- Đảo Thị Tứ (Thi Tu Island, Zhong Ye Dao hay
Chung -Yeh Tao (Trung cộng ), Pagasa Isl (phi) 11 o 027 vĩ B, 114o17 kinh Đ).
Đảo nằm ở phía Đông Bắc của đảo Trường Sa (Spratley) do san hộ tạo thành lẫn
với cát trắng và đá vôi.
Đảo hình bầu dục, bề ngang 550m, dài 700m, có
giếng nước ngọt. Trên đảo có cây mù u, cây bàng, nhiều cây leo chằng chịt.
Chung quanh đảo có rất nhiều rong biển và các bãi đá ngầm. Quanh đảo có nhiều
cá, đổn đột, rong biển.
-Phía Bắc Đảo Thị Tứ gồm Đá Hoài An (Xandi,
11o03 vĩ B, 114o134 kinh Đ), đá Tri Lễ (Sandy Cay, 11o037 vĩ B, 114o154 kinh
Đ), đá Vĩnh Hảo (11o045 vĩ B, 114o22 kinh Đ), đã Cái Vung (11o079 vĩ B, 114o115
kinh Đ). – Phía Nam đảo Thị Tứ là đá Xu Bi (Subi Reef, Zhu Bi Jiao,
Zamora Reef (Phi),10o54vĩ B, 114o06 kinh Đ), cách đảo Thị Tứ chừng 14 hải lý.
3. Cụm Loai Ta
Ở phía Đông cụm Thị tứ gồm đảo Loai Ta phía dưới
và cồn San Hô Lancan hay An Nhơn (Lankan Cay, Yang xin Zhou, Panata, 10o45 vĩ
B, 114o33 kinh Đ) ở phía Đông. Phía Bắc là cụm đảo Loai Ta (10o407 vĩ B, 114o24
kinh Đ Loai ta Island, Namyue Dao(Trung cộng ), Kota(Phi) (hình 1.24)).
Đảo
hình tròn, đường kính 300m, cao chừng 2m, có nhiều cây lớn mọc quanh đảo. Phía
Bắc đảo có nhiều cây dừa. Vòng quanh đảo có nhiều bãi cát trắng tạo nên vẻ đẹp
nên thơ, có giếng nước ngọt nhưng rất ít nước.
Cụm còn có đá An Lão
(Menzeis
Reef , Mong zi Jiao (Trung cộng ), Lankandula Reef, 11o038 vĩ B, 114o48 kinh
Đ), bãi Đường (Chan tan (Trung cộng ), 11o vĩ B, 114o42 kinh Đ), bãi An Nhơn
Bắc (đá cuội) (Ku gui Jiao (Trung cộng ) 10o465 vĩ B, 114o34 kinh Đ), bãi Lọai Ta
Bắc(Laoita Reef, Shuan huan Shazhou, 11o422 vĩ B, 114o210 kinh Đ), bãi Lọai Ta
Nam (Laoita Bank, Shuan huan Shazhou, 11o427 vĩ B, 114o195 kinh Đ). Phía Đông
cụm Loại Ta có đảo Dừa và Đá Cá Nhám.
4. Cụm đảo Nam Yết hay Ti Gia.
- Ở phía Nam cụm Loại Ta, nằm kết một vòng san
hô Tizart Bank, gồm đảo Nam Yết (NamYit Island, Hong xui dao, 10o11 vĩ B,
114o217 kinh Đ), đảo Sơn Ca (Sand Cay, Dungian shazhou, 11o227 vĩ B, 114o285
kinh Đ), cùng bãi Bàn Than (10o231 vĩ B, 114o245 kinh Đ), đá Núi Thị (Petley
Reef, Bolan Jiao, 10o247 vĩ B, 114o348 kinh Đ), đá En Đất (Eldad Reef, An da
jiao, 10o21 vĩ B, 114o41 kinh Đ), đá Lạc ( Meiji Jiao, 10o102 vĩ B, 114o148
kinh Đ)) , đá Gaven (Gaven Reef, Nan xun jiao, 10o127 vĩ B, 114o13 kinh Đ), đá
Lớn (Great Discovery Reef, Daxian jiao, 10o045 vĩ B, 114o52 kinh Đ), đá Nhỏ
(Small Discovery Reef, Xiaoxien jiao, 10o015 vĩ B, 114o52 kinh Đ), đá Đền Cây Cỏ
(Western or Flora Temple Reef, Fulusi jiao, 10o147 vĩ B, 114o375 kinh Đ), Cụm
này có đảo rộng nhất của Trường Sa là Ba Bình và cao nhất là đảo Nam Yết.
+ Đảo Nam Yết (NamYit Isl.,
Hongxui Jiao (Trung cộng ) Binago (Phi) 10o11 vĩ B, 114o217 kinh Đ).
Đảo lớn thứ hai sau Ba Bình, song là hòn đảo cao nhất của quần đảo, ở phía Nam của cụm, hình chữ C, dài khoảng 700m, rộng 250m cao 4,7m (15ft) (sách China Boundaries của Ying Cheng Kian (Illiois, 1984) ghi đảo này cao tới 64 ft, Ocean Year Book 10 (Chicago, 1993) ghi kể cả cây cao 20m).
Trên đảo có nhiều loại cây, nhiều
nhất là cây hú xương (cao hơn 3m), cây nhàu (cao hơn 3m), mù u (5m), dừa cao
nhất (khoảng 12m) và nhiều giống cây nhỏ có gai vùng nhiệt đới. Chim, vít ở đây
rất ít, Giếng nước không ngọt, hơi lờ lợ. Chung quanh đảo có vòng san hô và
nhiều bãi đá ngầm.
(Phía Bắc đảo có cầu tàu đối diện với đảo Ba Bình do Đài Loan chiếm đóng). Tại đây có công sự phòng thủ kiên cố, được đặt bộ chỉ huy toàn thể quân lính Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975, quân đội nhân dân Việt Nam đã tiếp quản.
+Đảo Sơn Ca (Sand Cay, Dungian
shazhou, 10o227 vĩ B, 114o285 kinh Đ).
Đảo có hình giống chữ C, dài 391m, rộng 156m, cao 3m (so với mực nước trung bình).
Đảo có hình giống chữ C, dài 391m, rộng 156m, cao 3m (so với mực nước trung bình).
Đảo có các loại cây như hú xương, bang, chiếc bạc và cỏ dại, dây leo mọc khắp nơi. Trước năm 1975 đều có quân đội Việt Nam Cộng Hòa chiếm đóng và sau đó được Quân Đội Nhân Dân Việt Nam tiếp quản.
+ Đảo Ba Bình (Itu Aba Island,
Taiping dao (Trung Quôc), Ligaw I (Philippines), 10o0228 vĩ B, 114o217 kinh Đ).
Đảo lớn nhất của quần đảo Trường Sa, độ cao chừng 4m (13ft) thấp hơn Nam Yết một chút; theo niên giám Đài Loan 1993, dài 1360m cao 3,8m diện tích 489.600m 2 (gần 50 ha).
Có điều kiện sinh hoạt tốt nhất, đất đai màu mỡ, trồng trọt khoai mì, rau cải,chuối… Chung quanh có san hô, mặt nước khá yên tĩnh, tiểu đĩnh có thể cập bến khá tốt. Phía Tây Nam cụm Nam Yết có đá Chữ Thập (Fiery Cross or N.W, Yungshu jiao Kagilingan Reef, 9o353 vĩ B, 114o542 kinh Đ).
Hòn đá chữ Thập là chỗ cao
nhất của một bãi cạn dài 25km, rộng tối đa 6 km, bị quân Trung cộng chiếm
đóng, biến nơi đây thành cơ sở quân sự quan trọng.
5. Cụm đảo Sinh Tồn
Ở phía Nam quần đảo Nam Yết Tigia. Gồm có đảo
Sinh Tồn (Sin Cowe Island, Hing hong dao, 9o526 vĩ B, 114o192 kinh Đ) )(hình
1.28), đá Sinh Tồn Đông, (9o526 vĩ B, 114o192 kinh Đ), đã Nhạn Gia (9o532 vĩ B,
114o202 kinh Đ), Đá Bình Khê (Endmund Reef, 9o530 vĩ B, 114o232 kinh Đ), Đá Ken
Nan (Mekennam Reef, (9o535 vĩ B, 114o273 kinh Đ), Đá Tư Nghĩa (Hughes Reef,
(9o542 vĩ B, 114o293 kinh Đ), Đá Bãi Khung (Holiday Reef, 9o565 vĩ B, 114o335
kinh Đ), Đá Đức Hòa (Empire Reef, 9o573 vĩ B, 114o348 kinh Đ), Đá Ba Đầu ( Whitsun
Reef, Weinan jiao (Trung cộng ) 9o59 vĩ B, 114o390 kinh Đ), Đá An Bình (Ross
Reef 9o535 vĩ B, 114o364 kinh Đ), Đá Bia (Bamfore, 9o497 vĩ B, 114o302 kinh Đ)
Đá Văn Nguyên (Jones Reef, 9o407 vĩ B, 114o285 kinh Đ), Đá Phúc Sỹ (Higgen Reef
9o467 vĩ B, 114o240 kinh Đ), Đá Len Đao, Đá Gạc Ma (Johnson Reef, Zhang
jiao (Trung cộng ), Mabine Reef(Phi) 9o420 vĩ B, 114o127 kinh Đ), Đá Cô Lin
(Conlins Reef, Cao lin jiao, 9o450 vĩ B, 114o138 kinh Đ), Đã Nghĩa Hành (Lovele
Reef, 9o50 vĩ B, 114o157 kinh Đ), Đa Tam Trung (9o511 vĩ B, 114o160 kinh Đ), Đá
Sơn Hà(Gent Reef, 9o52 vĩ B, 114o175 kinh Đ).
Ba hòn đảo trên và một số hòn đảo nhỏ nổi lên tạo thành một vòng đài san hô có tên là “Union Reef”.
6. Cụm đảo Trường Sa.
Ở phía Nam và phía Tây Nam của cụm Sinh Tồn,
trải dài theo chiều ngang, gồm có 3 đảo, các đá, bãi: Đá Lát (Ladd Reef, Riji
jiao, 8o358 vĩ B, 111o55 kinh Đ), Đảo Trường Sa (Spratley Island, Nan wei dao,
8o384 vĩ B, 111o55 kinh Đ) (hình 1.30), Bãi Đá Tây (West Reef (Sand
patch), Xijiao jiao, 8o52 vĩ B, 112o14 kinh Đ), Đá Đông (East Reef, Dong Jiao,
Silangan Reef, 8o502 vĩ B, 111o345 kinh Đ), Đá Châu Viên (Cuarteron Reef, Hua
yang Jiao, 8o53 vĩ B, 111o500 kinh Đ), Đa Tốc Khan (Alison Reef, Liumen jiao,
8o50 vĩ B, 111o00 kinh Đ), Đá Núi Le (Coznwalis S. Reef, Nan hua jiao, 8o45ĩ B,
111o11 Kinh Đ), Đá Tiên Nữ (Tennent Reef, Pigion, Tian Ian jiao, 8o52 vĩ B,
111o39 kinh Đ).
Cụm đảo Trường Sa nằm phia Đông, kế cận các bãi,
đá thuộc thềm lục địa Việt Nam như Phúc Tần, Huyền Trân, Quế Đường, Phúc
Nguyên, Tư Chính. Đảo lớn nhất là đảo Trường Sa (hình 1.29), người Pháp đã gọi
là đảo bão tố ( Ile de Tempete), có dạng hình tam giác cân mà đấy hơi chệch về
phía Bắc. Đáy dài 350m, hai cạnh kia, mỗi cạnh dài 450m, cao độ ở phía Bắc là
3,5m ở phía Nam là 2,1m so với mặt nước lúc nước ròng. Có khả năng thiết
lập phi đạo. Sau năm 1975 Việt Nam đã xây sân bay dài 800m.
Không có cây lớn, nhiều nhất là Nam Sâm, có dược tính, các loại rau sam, Muống biển. Có loại chim Hải Âu trắng, sơn ca, chim én. Có giếng nước ngọt , khá sâu, độ cao 3m, ngọt tốt 9/10, song lại có mùi tanh của san hô.
Không có cây lớn, nhiều nhất là Nam Sâm, có dược tính, các loại rau sam, Muống biển. Có loại chim Hải Âu trắng, sơn ca, chim én. Có giếng nước ngọt , khá sâu, độ cao 3m, ngọt tốt 9/10, song lại có mùi tanh của san hô.
Trước năm 1975 có quân trú phòng Việt Nam Cộng
Hòa, có cầu tàu về phía Tây Đảo. Sau khi tiếp quản, Quân đội Nhân Dân Việt Nam
đã xây càu tàu lớn hơn.
Ngoài ra còn có đảo Trường Sa Đông (Central Reef, Zhong jiao, 8o55 vĩ B, 112o21 kinh Đ), Đảo Phan Vinh (Pearson Reef, Bisheng jiao, 8o58 vĩ B, 113o 413 kinh Đ).
Ngoài ra còn có đảo Trường Sa Đông (Central Reef, Zhong jiao, 8o55 vĩ B, 112o21 kinh Đ), Đảo Phan Vinh (Pearson Reef, Bisheng jiao, 8o58 vĩ B, 113o 413 kinh Đ).
7. Cụm đảo An Bang
Ở phía Nam cụm đảo Trường Sa (Spratley) gồm có
một đảo và các bãi, đá: Đá Ba Kè (Bombay Castle, Pongpo bao jiao, 7o56 vĩ B,
111o 440 kinh Đ), Bãi Đất ( Orileana Shoal, Aonan Ansha, 7o41 vĩ B, 113o 440
kinh Đ). Bãi Đinh (Kinhston, Shoal, Jin du ansha, 7o34 vĩ B, 111o 345 kinh Đ), Bãi
Vũng Mây (John Pacth, Changpun, ansha, 7o47 vĩ B, 113o 35 kinh Đ), Bãi Thuyền
Chài (Barque Canada Reef Bai jiao, 8o10 vĩ B, 113o 18 kinh Đ), Đá Hà Tần (
Lzzie, Webr Li xei jiao, 8o045 vĩ B, 113o 10 kinh Đ), Đá Tân Châu (10o505 vĩ B,
115o 51 kinh Đ), Đa Lục Giang ( Hopp Reef, He jiao, 10o105 vĩ B, 115o 215 kinh
Đ), Đa Long Hải (Livok Reef, Nan Tang quan dao, 10o105 vĩ B, 115o 17 kinh
Đ), Bãi Trăng Khuyết (Half Moon Shoal Banyeu jiao 8o52 vĩ B, 113o 51 kinh Đ),
Đá Công Đo (Commodore Reef, Siling jiao, 8o22 vĩ B, 115o 13 kinh Đ), Đá Kỳ Vân
(Marivels Reef , Nan hai jiao, 7o37 vĩ B, 113o 56 kinh Đ), Bãi Kiệu Ngựa
(Asdasier Reef, Andu jiao, 7o37 vĩ B, 113o 56 kinh Đ), Đá Hoa Lau
(Swallow Reef, Dan Wan jiao 7o24 vĩ B, 113o 56 kinh Đ), Đá Sắc Lôt (
Royal Charlotts Reef, Huan lu jiao, 6o565vĩ B, 113o 36 kinh Đ), Đá Louisa
(Louisa Reef, Nan tong jiao, 6o209 vĩ B, 113o 154 kinh Đ).
Đảo duy nhất là đảo An Bang (Ambonay Cay, Anbo
shazou, 7o 522 vĩ B, 113o 542 kinh Đ). Đảo An Bang giống như một cái túi đáy
nằm ở phía Đông và miện túi thắt lại ở phía Tây. Đảo tương đối là nhỏ và dài,
chỉ rộng 20 m so với mặt nước lúc nước ròng.
8 Cụm đảo Bình Nguyên.
Cụm đảo ở về phía Đông gồm đảo Bình Nguyên (Flat
Island, Fei xin dao 10o49 vĩ B, 115o 495 kinh Đ), và đảo Vĩnh Viễn (Nashan
Island, Ma huan dao, 10o44 vĩ B, 115o 48 kinh Đ). Mỗi đảo diện tích khoảng 15
acres. Đảo Vĩnh Viễn dài chừng 580m, cao khoảng 2m, Đảo Bình Nguyên thấp hơn,
rất hẹp bề ngang.
Phía Nam gần đảo Vĩnh Viễn có Đá Hoa (10o32 vĩ
B, 115o 432 kinh Đ), Đá Đít Kim Sơn (10o325 vĩ B, 115o 472 kinh Đ), Đá Đin
(10o30 vĩ B, 115o 421 kinh Đ), Đá Hàn Sơn (10o28 vĩ B, 115o 115 kinh Đ), Đá Pét
(10o276 vĩ B, 115o 464 kinh Đ), Cồn san hô Giắc- xôn. Về phía Nam, xa hơn nữa
có đá Vành Khăn ( Mischief Reef, Mei ji jiao, 9o 55 vĩ B, 115o 32 kinh Đ), Bãi
Cỏ Mây (2ndThomas Shoal, Ren ai Reef, 9o44 vĩ B, 115o515 kinh Đ),
Bãi Cạn Suối Ngà (2ndThomas Shoal, Xinyu jiao, 9o195 vĩ B, 115o555 kinh Đ), Đá
Bốc Xan (Boxall Reef, Pai she jiao, 9o353 vĩ B, 116o095kinh Đ), Bãi Cạn Sa Bin
(Sabina Shoal, Xian xin ansha, 9o45 vĩ B, 116o29 kinh Đ). Phía Đông
cụm đảo Bình Nguyên là cụm đảo Vĩnh Viễn có đã Hợp Kim (Hopkins Reef, Huo
xing jiao, 10o49 vĩ B, 116o06 kinh Đ), Bãi Mỏ Vịt (Hirane Shoal, An tang tan,
10o54 vĩ B, 116o205 kinh Đ), Đá Ba Cờ (Baker Reef, Bei she jiao,
19o43 vĩ B, 5o116 kinh Đ), Đá Khúc Giac (Iroqois Reef, Feng lai jiao, 10o37 vĩ
B, 116o10 kinh Đ), Đa Bá, Đá giò Gà (North Pennsylvania Reef, Yang ming jiao
10o485 vĩ B, 116o515 kinh Đ). Bãi Cạn Nam, ( Southern Bank, Nan fang gian
tan, 10o 28 vĩ B, 116o 42 kinh Đ), Đá Chà Và (Brown, 10o345 vĩ B,
117o017 kinh Đ), Bãi Cạn Nâu ( Brown Bank, Dong tan 10o44 vĩ B, 117o189 kinh
Đ), Bãi Cạn Rạch Vang (Templer Bank, Zhong xi tan, 10 o40 vĩ B, 117o165
kinh Đ), Bãi Cạn Rạch Lấp (o45 vĩ B, 116o29 kinh Đ)
Carnatic Shoal, Hong shi anhsha, 10o06 vĩ B, 117o205 kinh Đ), Bãi Cạn Na Khoai (Lord Auckland Shoal, Elan ansha 10 o205 vĩ B, 115o165 kinh Đ).
Carnatic Shoal, Hong shi anhsha, 10o06 vĩ B, 117o205 kinh Đ), Bãi Cạn Na Khoai (Lord Auckland Shoal, Elan ansha 10 o205 vĩ B, 115o165 kinh Đ).
BKTT
MUỐN THƯA KIỆN- MUỐN CHIẾM LẠI HOÀNG TRƯỜNG SA - ĐIỀU
KIỆN TIÊN QUYẾT -DẸP ĐẢNG CS - VÔ HIỆU HOÁ NHÀ NƯỚC CS ĐANG NẮM QUYỀN
.
CÔNG HÀM
PVĐ VÒNG KIM CÔ CHO VIỆT CỘNG
tka23 post
Người dân Việt Nam trong hơn tháng qua kể từ ngày Trung cộng
ngang nhiên kéo giàn khoan vào sâu trong vùng biển đặc quyền kinh tế, mỗi
người một cách biểu lộ phản ứng của mình.
Đến người hiền lành nhất cũng cảm
nhận bị đe dọa bởi quân xâm lược. Ra chợ sẽ thấy, những khuôn mặt lấm lem của
người mua gánh bán bưng luôn loáng thoáng nỗi lo âu chiến tranh và trong ngôn
ngữ thường ngày người ta không ít lần nghe đến hai chữ “giàn khoan” cùng hàng
ngàn bàn tán.
Những bàn tán trong quán cà phê, nơi công sở
thậm chí ngay trong các bàn tiệc quan hôn tang tế lộ ra một điều: mọi sự đã phơi bày trước bàn dân thiên hạ về ý đồ
xâm lăng của Trung cộng . Khởi đầu thì người ta lo ngại, dần dà là sự tức giận
và cuối cùng là cay đắng, xấu hỗ.
Lo ngại vì Trung cộng mạnh và tham vọng bá
quyền. Tức giận vì Việt Nam gần như cô độc trong vùng, ngoại trừ Philippines,
số còn lại trong khối ASEAN hầu như im lặng không một lời phê phán. Và cuối
cùng là cay đắng, xấu hỗ khi Trung cộng công bố một loạt những bằng chứng
về Công hàm Phạm Văn Đồng ký năm 1958. Sách giáo khoa địa lớp 9 của Việt Nam
xuất bản năm 1974 rồi bản đồ thế giới do Cục Đo đạc Bản đồ Việt Nam in năm 1972
công nhận Hoàng Sa – Trường Sa là của Trung cộng .
Cả nước chết lặng, cổ đắng
họng khan, nghẹn ngào khi biết ra rằng cả một hệ thống cầm quyền từ xưa tới nay
đã lạc vào mê hồn trận do Trung cộng sắp đặt.
Câu hỏi từ mấy năm qua: tại sao không đem Hoàng
Sa – Trường Sa vào sách giáo khoa đã có lời giải.
Một lời nguyền thì đúng hơn,
bởi nó chứa đựng một chính sách sai lầm của nhiều đời Tổng Bí thư. Ngay
cả Hồ Chí Minh cũng không nhận ra lòng tham vô tận của người anh em mà
ông ta ăn nằm và tin cẩn như ruột thịt.
Ruột thịt ấy đã quay mặt với ông ta từ lâu
và đến hôm nay thì giọt nước cuối cùng trong chiếc ly đen tối mang tên hữu nghị
đã rơi xuống đất.
Kinh thánh Thiên chúa giáo có nhân vật Giu Da cả
gan bán Chúa cho quân Do Thái để lấy 30 đồng bạc sao mà giống câu chuyện của
Đảng cộng sản Việt Nam công nhận Hoàng Sa-Trường Sa là của Trung Quốc đến thế.
Giu Da lập luận rằng Chúa của ông là quyền năng
vô tận không một thế lực nào có thể bắt và giết ngài, vì vậy lừa bọn Do Thái để
lấy 30 đồng bạc là một hành động thông minh có khi còn được khen thưởng. Giu Da
không ngờ ý Chúa đã muốn cứu chuộc nhân loại và hành động của y như một bài học
cho con người về sự phản phúc chứ không thể xem là khôn ngoan.
Phạm Văn Đồng rơi đúng vào trường
hợp này khi nghĩ rằng ký công hàm không phải là xác nhận chủ quyền vào tay
Trung Quốc. Chữ ký ấy chỉ có ý nghĩa làm vui lòng một thế lực đang giúp Việt
Nam chiến đấu chống Mỹ và do đó có thể cho là một sự khôn khéo của ngoại giao.
Đồng và Đảng
Cộng sản Việt Nam đã đi theo vết xe của Giu Da bán Chúa. Thay vì bán một thánh
nhân thì ông và Đảng cộng sản đã đem đất nước ra đặt cược với Trung cộng . Từ
tờ công hàm ấy, Việt Nam trượt dài dưới áp lực của phương Bắc để có thêm hai
hành động mê muội theo sau khiến Trung cộng không dại gì mà không khai
thác.
Ba chi tiết dẫn đến mất nước ấy không ai có khả
năng phản biện vì càng cố phản biện thì sự ngụy biện càng lộ rõ hơn.
Bây giờ thì mọi câu hỏi trong quá khứ đã có lời
giải thỏa đáng. Đảng và nhà nước Việt Nam ý thức công hàm Phạm Văn Đồng là lưỡi
gươm Damocles luôn lơ lủng trên đầu nên khi dân chúng biểu tình chống Trung
Quốc thì chính quyền đàn áp không thương tiếc.
Hàng hóa Trung cộng tràn
ngập do nhà nước cố tình làm ngơ. Nhà thầu Trung cộng chiếm mọi cuộc thầu
lớn nhỏ, nhập siêu của Trung cộng mỗi năm mỗi cao hơn…là những biều hiện lấy
lòng để Trung cộng quên đi chuyện cũ…
Thế nhưng Việt Nam mới là kẻ mau quên. Quên
Trung cộng là một anh bạn lật lọng và sẵn sàng làm mọi chuyện để đạt mục
đích của họ. Nhường nhịn như vậy nhưng Việt Nam vẫn không bịt được mồm của một
kẻ quen thói lu loa nhất là lu loa để lấy hết biển Đông thì dù có làm hơn thế
trăm lần Trung cộng cũng sẽ theo đến cùng cuộc chiến tranh mồm mép.
Còn một chút niềm tin vào Chủ nghĩa Xã hội cũng
bị Trung cộng dày xéo lên luôn, thế là Đảng và nhà nước Việt Nam đành
quay mặt vào… nhau tìm phương kế thoát ra tiếng xấu ngàn đời.
Báo chí rõ ràng không dám đổ tội cho Phạm Văn Đồng, vì làm như thế là chấp nhận công hàm bán nước. Nhưng dù không chấp nhận cũng khó mà tranh cãi giữa tòa án quốc tế, nơi bài học Giu Da bán Chúa đã được các ông bà thẩm phán người phương Tây thuộc lòng từ khi mới sinh ra.
Những bằng chứng ấy phải được can đảm chấp nhận
và biện pháp duy nhất giải độc nó là nhận lỗi trước nhân dân cả nước về sai lầm
này.
Nhận lỗi không phải để tiếp tục cầm quyền mà
phải rút lui ra khỏi cương vị hiện nay vì tất cả các ông/bà trong Bộ chính trị
không ai xứng đáng đại diện cho nhân dân Việt Nam cả. Liên đới trách nhiệm
buộc những người đang đi dưới lá cờ của Đảng cộng sản Việt Nam phải thấy đó là
sự sỉ nhục chung không thể bào chữa. Nếu còn lương tri hãy vứt thẻ đảng để
lo cứu nước còn hơn ôm một mớ ảo tưởng ngồi đó chờ ngày người dân đến tước thẻ
của mình.
Nếu sau chiến tranh đảng viên được cho là
những người có công với cách mạng, đất nước thì công hàm Phạm Văn Đồng và sách
giáo khoa, bản đổ do Việt Nam phát hành phải được xem là hành động làm cho mất
nước. Người đảng viên đi dưới lá cờ của Đảng cộng sản không thể vô can và vì
vậy không được tiếp tục nhắm mắt đi theo đường của đảng vẽ ra, kể cả con đường
chống giặc Tàu nếu có.
Khi chữ Đảng cs không còn linh thiêng nữa thì
hãy trở về với lòng yêu nước còn sót lại hiếm hoi trong tim các vị. Đã đến lúc
phải chấp nhận rằng Đảng cs không còn chút giá trị gì khi nhận vai trò lãnh
đạo chống ngoại xâm. Chính Đảng cs mới là lực cản của toàn bộ sức mạnh
dân tộc.
Đảng không còn tỉnh táo để hướng dẫn bất cứ ai vì ngay người nắm vận mệnh của nó đã không còn đủ sáng suốt từ nhiều năm qua.
Hãy nhìn Nguyễn Phú
Trọng thì thấy ngay mặt trái của đảng Cộng sản Việt Nam hiện nay. Hơn ba triệu
đảng viên Cộng sản dưới quyền của Trọng đã có phát biểu nào cho ra hồn
khi chính thủ lĩnh không thèm nói một lời chống giặc?
Hay ông chờ cho tới ngày 15 tháng Tám khi giàn
khoan 981 rút đi vì bão tố, sóng dữ thì trở lại vai trò nhạc trưởng, đưa chiếc
gậy chỉ huy lên cho toàn đảng của ông ta cất lên bài ca núi liền núi sông liền
sông, Việt Nam luôn trọng tình hữu nghị?
TRUNG QUỐC KIỆN AI RA LHQ VÀ BẰNG CHỨNG SÁCH
GIÁO KHOA CỦA MIỀN BẮC TRƯỚC KIA LÀ BẰNG CHỨNG GÌ ?
Phương Ngân
Trước ngày 30/4 năm 1975, toàn thể đất nước VN bị chia cắt tạm thời thành hai miền. Mỗi miền tạm thời có chính phủ riêng, chế độ chính trị riêng, pháp lý riêng, quyền hành nhà nước hay thể chế riêng.
Lúc ấy Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc miền Nam (VNCH) với quyền làm chủ quản lý riêng, hoàn toàn độc lập với mọi nước khác, với quốc tế và cũng với miền Bắc tức VNDCCH. Như vậy nội dung sách giáo khoa của miền Nam khi ấy cũng hoàn toàn khác miền Bắc.
Trước ngày 30/4 năm 1975, toàn thể đất nước VN bị chia cắt tạm thời thành hai miền. Mỗi miền tạm thời có chính phủ riêng, chế độ chính trị riêng, pháp lý riêng, quyền hành nhà nước hay thể chế riêng.
Lúc ấy Hoàng Sa, Trường Sa là thuộc miền Nam (VNCH) với quyền làm chủ quản lý riêng, hoàn toàn độc lập với mọi nước khác, với quốc tế và cũng với miền Bắc tức VNDCCH. Như vậy nội dung sách giáo khoa của miền Nam khi ấy cũng hoàn toàn khác miền Bắc.
Nên ý nghĩa của mọi tính cách, mọi phản ứng, mọi hành động thực
tế, mọi tài liệu, mọi bản đồ có liên quan đến lãnh hải, biển đảo trực thuộc
miền Nam lúc đó nhất thiết phải tham khảo mọi tài liệu CỦA MIỀN NAM không lý gì
lại sử dung các tài liệu của miền Bắc. Vì lúc đó các sự kiện trên đều không
chính thức thuộc miền Bắc, do đó mọi tính cách pháp lý có liên quan mà miền Bắc
công bố, nêu lên đều hoàn toàn không có ý nghĩa hoặc giá trị trong thực tế.
Sách giáo khoa của miền Nam kho đó đương nhiên thảy đều công nhận HS-TS là của
nước VN từ xưa đến nay. Như vậy đáng lý ra TQ phải tìm tài liệu liên quan khi
ấy của miền Nam mà chứng minh mới hợp pháp lý, hợp lô-gích, hợp khách quan thực
tế. Đằng này TQ lại dựa vào ý nghĩa các nội dung nào đó của miền Bắc thì thật
hoàn toàn sai trái, già mồm, điêu xảo, hàm hồ, gian dối.
Còn ngày nay cả toàn đất nước VN đã thống nhất. Tuy rằng trong thực tế, miền Bắc đã đánh thắng miền Nam cũ và sáp nhập miền Nam cũ vào miền Bắc, thì vẫn là một nước VN duy nhất như khi chưa có phân tranh, chưa chia ra hai miền với hai chế độ chính trị xã hội. Nội hàm của một bộ phận không thể cho cũng là nội hàm của cái toàn phần hay cái toàn thể. Có nghĩa VN bây giờ là một VN nguyên vẹn, vượt lên trên cả miền Nam và miền Bắc với các yếu tố và hoàn cảnh lịch sử đặc thù trước kia.
Còn ngày nay cả toàn đất nước VN đã thống nhất. Tuy rằng trong thực tế, miền Bắc đã đánh thắng miền Nam cũ và sáp nhập miền Nam cũ vào miền Bắc, thì vẫn là một nước VN duy nhất như khi chưa có phân tranh, chưa chia ra hai miền với hai chế độ chính trị xã hội. Nội hàm của một bộ phận không thể cho cũng là nội hàm của cái toàn phần hay cái toàn thể. Có nghĩa VN bây giờ là một VN nguyên vẹn, vượt lên trên cả miền Nam và miền Bắc với các yếu tố và hoàn cảnh lịch sử đặc thù trước kia.
Bởi vì Quốc hội cũng là Quốc hội mới, lãnh thổ, chính phủ và nhà
nước hiện tại cũng là chính phủ và nhà nước mới, lãnh thổ cũng nguyên vẹn lại,
hoàn toàn không còn chỉ miền Nam hay miền Bắc, hoặc lãnh thổ của mỗi miền như
trước kia. Bởi vậy mọi cái gì VIỆT NAM NGÀY NAY thừa nhận những ý nghĩa dữ kiện
các mặt của hai miền Nam, Bắc cũ thì mới có ý nghĩa và giá trị pháp lý hiện
thời.
Còn mọi cái gì đất nước, dân tộc VN thống nhất ngày nay KHÔNG THỪA NHẬN
tính cách nào đó trong quá khứ riêng của mỗi miền cũ, tất nhiên không thể có
tính cách bó buộc hay ý nghĩa nào cả. Bởi vì thử hỏi TQ liệu ngày nay có còn
thừa nhận những tài liệu văn kiện quốc tế nào mà chế độ Tưởng Giới Thạch đã ký
kết với các nước hay không ? TQ cứ suy bụng ta ra bụng người thì hẳn phải thấy
rõ đừng có báo biến, già nếu nữa.
Nếu phải kiện ra LHQ đáng lý ra VN phải kiện trước thì đúng hơn. Cách kiện trước của TQ là cách vừa ăn cướp vừa la làng. Bởi nạn nhân chưa đi kiện mà kẻ làm ác lại đi kiện trước rồi nói ngược lại mọi cái chứng cứ, đó thật là kiểu hỏa mù cốt dể nhằm lập lờ đánh lận con đen một cách xảo quyệt, gian dối.
Nhưng nếu VN còn chậm nộp hồ sơ thì vẫn cứ kiện được. Hoặc với tính cách phản kiện. Hoặc với hồ sơ kiện độc lập, hoàn toàn chính đáng vì cho dù TQ kiện trước thì thực chất vẫn không thể chính đáng.
Nếu phải kiện ra LHQ đáng lý ra VN phải kiện trước thì đúng hơn. Cách kiện trước của TQ là cách vừa ăn cướp vừa la làng. Bởi nạn nhân chưa đi kiện mà kẻ làm ác lại đi kiện trước rồi nói ngược lại mọi cái chứng cứ, đó thật là kiểu hỏa mù cốt dể nhằm lập lờ đánh lận con đen một cách xảo quyệt, gian dối.
Nhưng nếu VN còn chậm nộp hồ sơ thì vẫn cứ kiện được. Hoặc với tính cách phản kiện. Hoặc với hồ sơ kiện độc lập, hoàn toàn chính đáng vì cho dù TQ kiện trước thì thực chất vẫn không thể chính đáng.
__._,_.___
No comments:
Post a Comment