NHỮNG
VẤN ĐỀ CHUNG QUANH CÔNG HÀM PHẠM VĂN ĐỒNG
Trần Gia Phụng -
Vào đầu tháng 5 vừa qua, Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương 981 đến đặt tại
vùng biển gần đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa, mà Trung Quốc đã đánh chiếm
của Việt Nam Cộng Hòa ngày-19-1-1974. Sự xuất hiện giàn khoan nầy làm rộ lên
trở lại dư luận trong và ngoài nước vấn đề công hàm ngày 14-9-1958 của Phạm Văn
Đồng, thủ tướng Bắc Việt Nam trước đây.
Từ 24-2 đến 29-4-1958,
các thành viên Liên Hiệp Quốc (LHQ) họp tại Genève bàn về luật biển. Hội nghị
ký kết bốn quy ước về luật biển. Riêng quy ước về hải phận mỗi nước, có 3 đề
nghị: 3 hải lý, 12 hải lý và 200 hải lý. Không đề nghị nào hội đủ túc số 2/3,
nên LHQ chưa có quyết định thống nhất. Lúc đó, Trung Quốc và hai miền Nam và
Bắc Việt Nam không phải là thành viên LHQ nên không tham dự hội nghị nầy.
Trước cuộc tranh cãi
về hải phận, ngày 28-6-1958, Mao Trạch Đông tuyên bố với nhóm tướng lãnh thân
cận: “Ngày nay, Thái Bình Dương không yên ổn. Thái Bình Dương chỉ yên
ổn khi nào chúng ta làm chủ nó.” (Jung Chang and JonHalliday, MAO: The
Unknown Story, New York: Alfred A. Knopf, 2005, tr. 426.) Tiếp đó, ngày
4-9-1958, Trung Quốc đưa ra bản tuyên bố về hải phận gồm 4 điểm, trong đó điểm
1 và điểm 4 được dịch như sau:
(1) Bề rộng lãnh hải
của nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc là 12 hải lý. Điều lệ nầy áp dụng cho
toàn lãnh thổ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, bao gồm phần đất Trung Quốc
trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Đài Loan (tách biệt khỏi đất liền và
các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu, quần đảo
Đông Sa, quần đảo Tây Sa [Xisha tức Hoàng Sa],
quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa [Nansha tức Trường Sa], và các
đảo khác thuộc Trung Quốc....
(4) Điều (2)
và (3) bên trên cũng áp dụng cho Đài Loan và các đảo phụ cận, quần đảo Penghu [Bành
Hồ], quần đảo Đông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa,
và các đảo khác thuộc Trung Quốc...(Nguồn:://law.hku.hk/clsourcebook/10033.htm>).
Mục đích của bản tuyên
bố ngày 4-9-1958 nhằm xác định hải phận của Trung Quốc là 12 hải lý. Tuy nhiên
điểm 1 và điểm 4 của bản tuyên bố cố ý lập lại và mặc nhiên khẳng định chắc
chắn rằng hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa (vốn của Việt Nam) thuộc chủ quyền
của Trung Quốc và gọi theo tên Trung Quốc là Xisha [Tây Sa tức Hoàng Sa] và
Nansha [Nam Sa tức Trường Sa].
Điểm cần chú ý là
Trung Quốc lúc đó chưa phải là thành viên Liên Hiệp Quốc và không thể dùng diễn
đàn của Liên Hiệp Quốc để bày tỏ quan điểm và chủ trương của mình, nên Trung
Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố nầy, thông báo quyết định về lãnh hải của
Trung Quốc. Vì vậy các nước không nhất thiết là phải trả lời bản tuyên bố của
Trung Quốc, nhưng riêng Bắc Việt Nam lại tự ý đáp ứng ngay.
2. Công hàm
bắc Việt
Video: CÔNG HÀM BÁN NƯỚC 1958 CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG, VÀ NHỮNG HỆ LỤY MẤT BIỂN ĐẢO
Video: CÔNG HÀM BÁN NƯỚC 1958 CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG, VÀ NHỮNG HỆ LỤY MẤT BIỂN ĐẢO
Trước khi ký kết
hiệp định Genève ngày 20-7-1954 chia hai đất nước, đảng Lao Động (tức đảng Cộng
Sản Việt Nam) đã sắp đặt trước kế hoạch tiếp tục chiến tranh đánh miền Nam. Chủ
trương nầy được đưa ra rõ nét tại hội nghị Liễu Châu (Liuzhou) thuộc tỉnh Quảng
Tây (Guangxi), từ ngày 3 đến ngày 5-7-1954 giữa Hồ Chí Minh và Chu Ân Lai.
Sau khi đất nước
bị chia hai, Bắc Việt nằm dưới chế độ cộng sản do Hồ Chí Minh và đảng Lao Động
(tức đảng Cộng Sản Việt Nam) lãnh đạo. Muốn đánh miền Nam, thì Bắc Việt cần
được các nước ngoài viện trợ, nhất là Liên Xô và Trung Quốc. Vì vậy, khi Trung
Quốc đơn phương đưa ra bản tuyên bố về lãnh hải ngày 4-9-1958, chẳng cần tham
khảo ý kiến Bắc Việt, thì “không gọi mà dạ”, Phạm Văn Đồng, thủ tướng Bắc Việt,
lại hưởng ứng ngay, ký công hàm ngày 14-9-1958, tán thành quyết định về hải
phận của Trung Quốc để lấy lòng chính phủ Trung Quốc.
Mở đầu bản công
hàm, Phạm Văn Đồng viết: “Thưa Đồng chí Tổng lý”. Kết thúc bản công
hàm là câu: “Chúng tôi xin kính gởi Đồng chí Tổng lý lời chào rất trân
trọng.” Gọi nhau đồng chí là ngôn ngữ giao thiệp giữa đảng với đảng
trong cùng một hệ thống cộng sản quốc tế, khác với ngôn ngữ ngoại giao thông
thường. Nội dung bản công hàm Phạm Văn Đồng nguyên văn như sau:
“Chính phủ
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4 tháng
9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc, quyết định về hải
phận của Trung Quốc.
Chính phủ
nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ
quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung
Quốc trong mọi quan hệ với nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc trên mặt bể.”
Chắc chắn bản công hàm nầy được Hồ Chí Minh và Bộ chính trị đảng Lao Động (tức đảng Cộng Sản) chuẩn thuận và được gởi thẳng cho Trung Quốc mà không tham khảo ý kiến hay thông qua quốc hội Bắc Việt. Quốc hội Bắc Việt lúc đó nguyên là quốc hội được bầu ngày 6-1-1946, gọi là quốc hội Khóa I. Sau chiến tranh 1946-1954, đất nước bị chia hai. Nhà nước Bắc Việt triệu tập những dân biểu cộng sản còn sống ở Bắc Việt vào tháng 9-1955, tiếp tục hoạt động cho đến ngày 8-5-1960, Bắc Việt mới tổ chức bầu lại quốc hội khóa II, khai mạc phiên họp đầu tiên tại Hà Nội ngày 6-7-1960.
3. Trung Quốc biện
minh
Video: CÔNG HÀM BÁN NƯỚC CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG 1958 CÓ HIỆU LỰC PHÁP LÝ HAY KHÔNG?
Video: CÔNG HÀM BÁN NƯỚC CỦA PHẠM VĂN ĐỒNG 1958 CÓ HIỆU LỰC PHÁP LÝ HAY KHÔNG?
Khi tự động đem giàn khoan 981 đặt trong vùng biển Hoàng Sa, vi phạm lãnh hải Việt Nam, Trung Quốc liền bị dân chúng Việt Nam biểu tình phản đối mạnh mẽ và dư luận quốc tế lên án, thì nhà cầm quyền Trung Quốc cho người sử dụng công hàm Phạm Văn Đồng ngày 14-9-1958 để nói chuyện.
Cùng ngày 20-5,
hai nhân vật Trung Quốc đã lên tiếng biện minh cho hành động của Trung Quốc. Dĩ
nhiên họ được lệnh của nhà nước Bắc Kinh mới được quyền lên tiếng.
Thứ nhứt, đại
biện lâm thời Trung Quốc ở Indonesia, ông Lưu Hồng Dương, có bài đăng trên báo
Jakarta Post(Indonesia), xác định rằng quân đảo Tây Sa [tức Hoàng Sa] là lãnh
thổ của Trung Quốc. Bài báo viết: “Trong tuyên bố ngày 14-9-1958, thay
mặt chính phủ Việt Nam khi đó, Phạm Văn Đồng, công khai thừa nhận quần đảo Tây
Sa và các đảo khác ở Nam Hải là lãnh thổ Trung Quốc.” Lưu Hồng Dương,
tác giả bài báo, còn viết: “Việt Nam rõ ràng vi phạm nguyên tắc
“estoppels”. [không được nói ngược].
Người thứ hai là
tiến sĩ Ngô Sĩ Tồn, giám đốc Viện Nghiên cứu Nam Hải của Trung Quốc, trả lời
phỏng vấn hãng tin Deutsch Welle (DW) của Đức, được đưa lên Net ngày 20-5. Ông
nầy nói như sau: “Năm 1958, thủ tướng Việt Nam khi đó là Phạm Văn Đồng
đã công nhận chủ quyền Trung Quốc đối với Tây Sa và Nam Sa trong công hàm gửi
thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai... Hà Nội chỉ thay đổi lập trường sau khi đất
nước thống nhất năm 1975. Nhưng theo nguyên tắc estoppel, Trung Quốc không tin rằng
Việt Nam có thể thay đổi lập trường về vấn đề chủ quyền.”
4. Cộng sản
Việt Nam chống chế
Trả lời những
cáo buộc trên đây của Trung Quốc, trong cuộc họp báo ngày 23-5-2014 tại Hà Nội,
ông Trần Duy Hải, phó chủ nhiệm Ủy ban Biên giới Quốc gia, cho rằng công hàm
của thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 không có giá trị pháp lý về vấn đề chủ
quyền biển đảo Việt Nam.
Ông Hải nói: “Việt
Nam tôn trọng vấn đề 12 hải lý nêu trong công thư chứ không đề cập tới Hoàng
Sa, Trường Sa, vì thế đương nhiên không có giá trị pháp lý với Hoàng Sa và
Trường Sa... Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền sở hữu, quản lý
được. Vậy điều đó càng khẳng định công văn của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng không
có giá trị pháp lý...”
Ngoài ra, còn có
đại sứ của hai phía Trung Cộng và Việt Cộng ở Hoa Kỳ tham gia cuộc tranh cãi,
lên tiếng bênh vực lập trường của chính phủ mình. Báo chí hai nước cũng đưa tin
và bình luận cáo buộc đối phương mà trước đây ít khi thấy. Lời qua tiếng lại
còn nhiều, nhưng đại khái lập trường hai bên là như vậy.
Bản tuyên bố
ngày 4-9-1958 của Trung Quốc đưa ra hai chủ điểm: 1) Xác định hải phận của
Trung Quốc là 12 hải lý. 2) Mặc nhiên xác nhận chủ quyền của Trung Quốc trên
một số quần đảo trên Biển Đông trong đó có hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa,
vốn của Việt Nam từ lâu đời.
Dầu công hàm
Phạm Văn Đồng không có chữ Hoàng Sa và Trường Sa như ông Trần Duy Hải nói,
nhưng công hàm Phạm Văn Đồng “ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4
tháng 9 năm 1958 của Chính phủ nước Cộng Hòa Nhân Dân Trung Quốc”, có
nghĩa là nhà nước Bắc Việt cộng sản công nhận hai chủ điểm của bản tuyên bố của
Trung Quốc.
Trần Duy Hải còn
nhấn mạnh rằng sau hiệp định Genève, Hoàng Sa và Trường Sa thuộc quyền quản lý
của Việt Nam Cộng Hòa và “Bạn không thể cho ai thứ mà bạn chưa có quyền
sở hữu, quản lý được.” Ông Hải nói chuyện lạ lùng như một người nước
ngoài. Nếu Nam Việt không phải là một phần của Việt Nam, thì tại sao Bắc Việt
lại đòi “Chống Mỹ cứu nước” hay “Giải phóng miền Nam,
thống nhất đất nước.”? Khi xâm lăng Nam Việt, thì Bắc Việt nhận Nam Việt là
một phần của Việt Nam.
Khi cần xin viện trợ thì Bắc Việt bảo rằng đó là của Nam
Việt, rồi Bắc Việt dùng để trao đổi với nước ngoài? (Một giải thích lạ lùng hơn
nữa là bà Nguyễn Thị Thụy Nga (Bảy Vân), vợ Lê Duẫn, trả lời trong cuộc phỏng
vấn năm 2008 của đài BBC rằng “ngụy nó đóng ở đó nên giao cho Trung
Quốc quản lý Hoàng Sa.” (CTV Danlambao -danlambaovn.blogspot.com)
Một nhà nghiên
cứu trong nước còn nói rằng công hàm Phạm Văn Đồng không thông qua quốc hội nên
không có giá trị pháp lý trong bang giao quốc tế. (BBC Tiếng Việt 21-5-2014,“Hoàn
cảnh lịch sử công hàm 1958”).
Khái niệm nầy
chỉ đúng với các nước tự do dân chủ. Trong các nước tự do dân chủ, tam quyền
phân lập rõ ràng. Những quyết định của hành pháp phải được lập pháp thông qua,
nhất là những hiệp ước về lãnh thổ, lãnh hải phải có sự đồng ý của quốc hội.
Tuy nhiên dưới chế độ cộng sản, cộng sản không cai trị theo luật pháp, mà cộng
sản thống trị theo nghị quyết của đảng cộng sản. Với cộng sản, tam quyền không
phân lập mà tam quyền đồng quy vào trong tay đảng CS, nên CS chẳng cần đến quốc
hội. Chủ trương nầy được đưa vào điều 4 hiến pháp cộng sản mà ai cũng biết.
Trung Quốc là
một nước cộng sản từ năm 1949. Đảng Cộng Sản Trung Quốc cũng thống trị đất nước
họ như đảng Cộng Sản Việt Nam (CSVN). Vì vậy, giữa hai nước cộng sản với nhau,
Trung Quốc rất am hiểu truyền thống của nhau, am hiểu ngôn ngữ cộng sản với
nhau. Chính công hàm của Phạm Văn Đồng cũng viết theo ngôn ngữ cộng sản: “Thưa
Đồng chí Tổng lý”. Vì vậy, Trung Quốc hiểu công hàm Phạm Văn Đồng theo cách
thống trị đất nước của nhà nước cộng sản, nghĩa là quyết định của đảng cộng sản
là quyết định tối hậu, trên tất cả, chẳng cần gì phải có chuyện quốc hội phê
chuẩn.
Hồ Chí Minh và
đảng Lao Động (tức đảng CSVN ngày nay) ủng hộ hay không ủng hộ bản tuyên bố về
hải phận của Trung Quốc, dân chúng Việt Nam không cần quan tâm. Tuy nhiên, đối
với dân chúng Việt Nam, chuyện Phạm Văn Đồng cùng Hồ Chí Minh và đảng Lao Động
tán thành “quần đảo Tây Sa [Hoàng Sa],... quần đảo Nam Sa [Trường
Sa],... thuộc Trung Quốc” là một hành vi bán nước và phản quốc.
6.
Liên minh quân sự
Trước hiểm họa
Trung Quốc đe dọa ngày nay, vì Việt Nam không đủ sức chống lại Trung Quốc nên
có ý kiến cho rằng nhà nước CSVN cần phải liên minh với nước ngoài để chống
Trung Quốc. Ví dụ liên minh với Hoa Kỳ hay với khối ASEAN chẳng hạn.
Tuy nhiên, trong
cuộc họp báo tại Bắc Kinh vào ngày 25-8-2010, trung tướng Nguyễn Chí Vịnh, thứ
trưởng Quốc phòng CSVN đã đưa ra chủ trương “ba không” của đảng
CS và nhà nước CSVN là: Không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài
đặt căn cứ quân sự và không cùng một nước khác chống lại nước thứ ba. (Xem
Internet: chủ trương ba không của CSVN.)
Về phía Hoa Kỳ,
thì vừa qua, ngày 28-5-2014, trong bài diễn văn trình bày tại lễ tốt nghiệp Học
viện Quân sự WestPoint, New York, tổng thống Obama đưa ra nét căn bản về chính
sách ngoại giao của Hoa Kỳ: “Hoa Kỳ sẽ sử dụng quân đội, đơn phương nếu
cần thiết, nếu cần cho lợi ích cốt lõi của chúng ta - trong trường hợp người
dân chúng ta bị đe dọa, nguồn sống chúng ta gặp nguy hiểm hay an ninh của các
nước đồng minh bị thách thức...” (BBC Tiếng Việt, 29-5-2014.)
Chủ trương sử
dụng sức mạnh để bảo vệ lợi ích cốt lõi của nước mình không phải là chủ trương
riêng của Hoa Kỳ hay của một nước nào mà là chủ trương chung của tất cả các
nước trên thế giới. Nước nào cũng vì quyền lợi của nước mình mà thôi. Vậy thử
hỏi Hoa Kỳ có quyền lợi gì khi giúp Việt Nam (90 triệu dân) nhằm đổi lại với
việc Hoa Kỳ giao thương với Trung Quốc (hơn 1 tỷ dân)? Ngoài ra, Hoa Kỳ khó trở
thành đồng minh của Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam chỉ vì một lý do đơn
giản là CHXHCNVN là một nước cộng sản vi phạm nhân quyền một cách trầm
trọng.
Hơn nữa, Hoa Kỳ
mới liên minh trở lại với Phi Luật Tân để ngăn chận Trung Quốc từ xa. Vì Phi
Luật Tân ở xa, nằm phía bên kia bờ Biển Đông phân cách Phi Luật Tân với lục địa
Trung Quốc, nên an toàn hơn cho Hoa Kỳ. Vì vậy, Hoa Kỳ có cần liên minh với
CSVN hay không?
Các nước trong
khối ASEAN cũng không khác gì Hoa Kỳ, tập họp với nhau vì quyền lợi kinh tế của
mỗi nước. Có nước chẳng ưa thích gì Việt Nam như Cambodia, Lào vì truyền thống
lâu đời. Có nước chẳng có quyền lợi gì trong vấn đề Việt Nam và Biển Đông như
Miến Điện, Mã Lai. Đó là chưa nói hầu như các nước ASEAN đều quan ngại thế lực
của Trung Quốc về nhiều mặt và các nước ASEAN còn muốn Việt Nam luôn luôn ở thế
yếu kém, bị động để đừng quay qua bắt nạt các nước láng giềng.
Như thế, chỉ là
ảo tưởng nếu nghĩ rằng nhà nước CSVN có thể liên minh với bất cứ nước nào để
chống Trung Quốc. Trung Quốc dư biết điều đó. Cộng sản Việt Nam phải tự mình
giải quyết lấy bài toán của mình do những sai lầm của Hồ Chí Minh và đảng CSVN
gây ra. Nhờ Trung Quốc đánh Pháp chẳng khác gì nhờ một tên ăn cướp đuổi một kẻ
ăn trộm. Còn nhờ Trung Quốc chống Mỹ không phải là giải pháp để cứu nước mà là
con đường dẫn đến mối nguy mất nước...
7.
Phải quyết định
Lịch sử cho thấy
từ bao đời nay, dân tộc Việt Nam luôn luôn chiến đấu để bảo vệ lãnh thổ, chống
lại các cuộc xâm lăng của nước ngoài. Ngược lại, từ giữa thế kỷ 20, đảng CSVN
cướp được chính quyền năm 1945, đã dùng đất đai do tổ tiên để lại như một vật
trao đổi nhằm mưu cầu quyền lực, mà công hàm Phạm Văn Đồng là một ví dụ điển
hình.
Muốn thoát khỏi
tấn bi kịch hiện nay, một trong những việc đầu tiên là phải vô hiệu hóa công
hàm Phạm Văn Đồng, chấm dứt sự thừa nhận của Phạm Văn Đồng và đảng Lao Động tức
đảng CSVN đối với tuyên bố của Trung Quốc.
Muốn vô hiệu hóa
công hàm Phạm Văn Đồng thì phải vô hiệu hóa chính phủ đã ký công hàm. Phạm Văn
Đồng đã chết. Chính phủ Phạm Văn Đồng không còn. Tuy nhiên, chính phủ thừa kế
chính phủ Phạm Văn Đồng còn đó ở Hà Nội. Vậy chỉ còn cách giải thể nhà nước
cộng sản hiện nay ở Hà Nội mới có thể vô hiệu hóa công hàm Phạm Văn Đồng. Có
hai cách giải thể:
Thứ nhứt, đảng
Cộng Sản Việt Nam hiện nay, hậu thân của đảng Lao Động trước đây, thừa kế chính
thức của nhà nước do Phạm Văn Đồng làm thủ tướng, phải tìm cách tự lột xác như
ve sầu lột xác (kim thiền thoát xác), mới phủ nhận những điều do nhà cầm quyền
cũ ký kết. Trên thế giới, đã có hai đảng cộng sản theo thế kim thiền thoát xác
là trường hợp Cộng sản Liên Xô với Yeltsin và cộng sản Cambodia với Hun Sen.
Vấn đề là những
nhà lãnh đạo cộng sản Việt Nam hiện nay có vì sự sống còn của đất nước, có chịu
hy sinh quyền lợi của đảng CS, có chịu giải thể đảng CS như Yeltsin đã làm ở
Liên Xô, để cùng dân tộc tranh đấu bảo vệ non sông?
Thứ hai, nếu
những nhà lãnh đạo cộng sản vẫn cương quyết bám lấy quyền lực, cương quyết duy
trì đảng CSVN, thì chỉ còn con đường duy nhứt là toàn dân Việt Nam phải tranh
đấu lật đổ chế độ cộng sản. Cuộc tranh đấu sẽ rất cam go, khó khăn, nhưng hiện
nay đất nước chúng ta đang đứng bên bờ vực thẳm, đang lâm vào thế cùng. Cùng
đường thì phải tranh đấu để biến đổi và tự cứu mình.
Vậy chỉ còn con
đường duy nhứt là chấm dứt chế độ CSVN để chấm dứt công hàm Phạm Văn Đồng, đồng
thời chấm dứt luôn những mật ước giữa đảng CSVN với đảng Cộng Sản Trung Quốc từ
thời Hồ Chí Minh cầu viện, qua thời Thành Đô và cho đến hiện nay.
Đã đến lúc phải
quyết định dứt khoát: Hoặc CSVN theo thế “ve sâu lột xác”, hoặc
CSVN phải bị lật đổ mà thôi. Nếu không, hiểm họa một thời kỳ Hán thuộc mới đang
chờ đợi Việt Nam.
(Toronto, 5-6-2014)
Trần Gia Phụng
No comments:
Post a Comment