THỜI ĐIỂM
HÀNH ĐỘNG VÀ THÔNG ĐIỆP TRONG CHIẾN LƯỢC LẤN CHIẾM LÃNH THỔ, LÃNH HẢI VIỆT NAM
CỦA TRUNG QUỐC
NGUYỄN THỊ MAI HOA
09.05.2014
Trung Quốc là quốc gia nhiều tham vọng; trong đó, tham vọng
về mở rộng ảnh hưởng, mở rộng địa bàn hoạt động, mở rộng cương vực sinh tồn,
lãnh thổ, đất đai là một trong những trục có tính xuyên suốt, nhất quán từ lịch
sử tới hiện tại. Áp lực dân số và “ước mơ Trung Hoa” – “ước mơ” trỗi dậy một
cách nhanh chóng, trở thành siêu cường có khả năng chi phối thế giới càng củng
cố, thúc đẩy Trung Quốc thực hiện chiến lược “lấn dần”, “chèn ép”, tranh đoạt đất
đai, sông biển của láng giềng, nhất là của các nước láng giềng nhỏ và yếu hơn.
1. Ngược dòng sự kiện
Là quốc gia thích “gây hấn” và thường xuyên “gây hấn” để đạt
mục tiêu và mang lại lợi ích một cách tối đa nhất; đồng thời, cũng là quốc gia
từng cọ sát lâu đời và đang tham gia giải quyết nhiều vấn đề trên chính trường
quốc tế, Trung Quốc có kinh nghiệm lão luyện chuẩn bị, chọn và thúc đẩy thời điểm
để quyết định hành động.
Có nhiều cách thức trong lựa chọn thời điểm bắt đầu của
Trung Quốc, song cách phổ biến, cổ truyền và cũng hữu hiệu nhất vẫn là lựa
khi quốc gia - đối tượng trong tình thế có những bất ổn nội bộ, gặp rắc
rối hoặc có vị thế yếu trên trường quốc tế. Đó là lúc “trong không ấm, ngoài
không êm” và nếu quốc gia bị Trung Quốc “nhòm ngó” có những quyết định đương đầu
mạnh mẽ, dứt khoát, thì tác dụng, hiệu quả cũng bị hạn chế đáng kể - trong điều
kiện đó, Trung Quốc đã kịp thời và nhanh chóng chớp lấy thời cơ thực hiện mục
tiêu của mình.
Xâm lấn, đánh chiếm lãnh thổ các nước láng giềng, Trung Quốc
luôn tính toán và tính toán kỹ càng từ thời điểm hành động đến mục tiêu hành động.
Trung Quốc luôn hướng tới những mục tiêu kép, có nghĩa là bỏ “vốn” ít, song làm
sao “lãi” lớn nhất – một hành động, nhiều mục đích, nhiều thông điệp.
Minh chứng cho nhận định trên, có thể dẫn dụ hàng loạt dẫn
chứng điển hình.
Trước tiên là sự kiện Trung Quốc đánh chiếm Hoàng Sa vào
tháng 1-1974. Bối cảnh lúc đó nhìn tổng thể như sau: Từ tháng 2-1972, quan hệ
Trung – Mỹ được cải thiện một bước đáng kể qua chuyến thăm Trung Quốc của Tổng
thống Mỹ R. Nicxon – một chuyến thăm như Tổng thống R.Nicxon hoan hỉ nhận xét:
"Đây là một tuần lễ làm thay đổi thế giới"[1];
"hai nước chúng ta đã nắm tương lai của thế giới trong lòng bàn tay"[2]. Tháng 1-1973, Hiệp định Paris lập lại hòa bình ở Việt Nam được
ký kết, Mỹ rút quân khỏi Việt Nam, Hạm đội 7 rút khỏi khu vực quần đảo Hoàng Sa.
Sau khi Mỹ rút, Việt Nam Cộng hòa gặp phải những khó khăn về kinh tế, quân sự
và lúng túng trước những bất ổn nội bộ; đồng thời, phải căng mình chống đỡ các
cuộc tiến công của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Về phía Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, Hiệp định Paris mở ra cơ hội thống nhất đất nước, miền Bắc Việt Nam dốc
toàn lực chuẩn bị cho cuộc Tổng công kích “một ngày bằng 20 năm”.
Cũng từ năm
1973, Philippines tăng cường sự hiện diện ở khu vực Trường Sa, chính quyền Sài
Gòn có những động thái tích cực trong xác định chủ quyền và khai thác tài
nguyên, nếu không hành động, sau này việc chiếm đóng Hoàng Sa sẽ khó khăn thêm.
Phân tích tình hình, Trung Quốc nhận thấy đây là cơ hội tốt để thực hiện quyết
tâm độc chiếm quần đảo này.
Đúng như Trung Quốc định liệu, khi hải chiến Hoàng
Sa xảy ra, vì đang cần tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc đối với công cuộc giải
phóng miền Nam; đồng thời, bị trói buộc bởi “vòng kim cô” ý thức hệ, Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa không lên tiếng (chỉ có Chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng
hòa miền Nam Việt Nam ra tuyên bố). Vừa cải thiện quan hệ với Trung Quốc, không
mấy thiết tha với chính quyền Sài Gòn, hy vọng “sự kiện Hoàng Sa” trở thành
“khúc xương” trong quan hệ giữa hai quốc gia cộng sản, Mỹ đã im lặng.
Cuối
cùng, chỉ còn Việt Nam Cộng hòa lên tiếng phản đối và đề nghị các quốcgia đồng
minh đưa vấn đề Trung Quốc cưỡng chiếm Hoàng Sa ra Hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc,
song kết quả nhận được là hạn chế. Tiến hành cuộc đột kích đẫm máu, Trung Quốc
không chỉ chiếm trọn quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam, mà còn mở rộng cương vực
hoạt động, khẳng định với các nước Đông Nam Á chiến lược hướng ra biển Đông với
mục tiêu bất biến là trở thành một đế chế biển rộng lớn.
Cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam năm 1979 là một
ví dụ thuyết phục tiếp theo. Vào thời điểm đó, tình hình kinh tế - xã hội Việt
Nam đang gặp những khó khăn to lớn: Năm 1979, tổng sản phẩm xã hội, thu nhập quốc
dân đều giảm[3]; thiếu lương thực
gay gắt[4]; lạm phát diễn ra
nghiêm trọng; thu chi ngân sách phải dựa vào vay và viện trợ nước ngoài, lòng
tin của nhân dân đối với chế độ giảm sút, tâm trạng xã hội căng thẳng, nao
núng. Cùng lúc, Việt Nam bị “sa lầy” tại Campuchia, vừa phải đối đầu với tàn
quân Polpot, vừa gánh đỡ đất nước Campuchia sau thảm họa diệt chủng. “Vấn đề Campuchia”
khiến Việt Nam cô đơn, lẻ loi hơn bao giờ hết trong quan hệ đối ngoại.
Các nước
lên án Việt Nam “xâm lược”, rút quan hệ, bao vây, cấm vận; thậm chínhững nước
trước đây là đồng minh, bạn bè cũng nhìn Việt Nam với con mắt nghi ngại, lạnh
nhạt. Trong tình hình bất lợi đối với Việt Nam, Trung Quốc tiến hành chiến
tranh xâm lược mà không cần nguyên do/nguyên cớ (trong khi năm 1964, Mỹ phải viện
sự kiện Vịnh Bắc Bộ mới có thể đưa quân vào Việt Nam), tuyên bố “dạy cho Việt
Nam một bài học”, viết nên “quyền” hành xử bất chấp luật lệ. Sau khi rút quân
(5-3-1979), tuyên bố không tham vọng dù "chỉ một tấc đất của Việt Nam”,
song trên thực tế, Trung Quốc đã chiếm giữ một số điểm cao có ưu thế quân sự, lấn
sâu vào lãnh thổ Việt Nam.
Tiến hành chiến tranh chống Việt Nam, Trung Quốc
không chỉ muốn đất đai và răn đe, làm suy yếu Việt Nam, mà còn nhằm nâng cao uy
tín nước lớn, tuyên bốvới các quốc gia láng giềng, nhất là ở khu vực Đông Nam Á
về khả năng, quyết tâm ngăn chặn ảnh hưởng, tham vọng của của Việt Nam và Liên Xô.
Trung Quốc cũng sử dụng cuộc chiến tranh chống Việt Nam để giải quyết một số vấn
đề nội bộ, phục vụ cho việc Đặng Tiểu Bình củng cố quyền lực sau khi trở lại
“võ đài” chính trị chưa bao lâu.
Tháng 3-1988, Trung Quốc có hành động quyết liệt hơn,
gây ra cuộc hải chiến đẫm máu gần cụm đảo Sinh Tồn (quần đảo Trường Sa) –“cuộc
đụng độ hải quân trầm trọng nhất ở khu vực Trường Sa kể từ khi kết thúc Chiến
tranh thế giới thứ hai”[5], khiến 3 tàu vận
tải của Việt Nam bị bắn chìm, 20 người hy sinh và 74 người bị mất tích. Đây là
thời điểm được Trung Quốc tính toán, cân nhắc kỹ lưỡng, vì Việt Nam vẫn chưa giải
quyết dứt điểm “vấn đề Campuchia”, chưa thoát khỏi bao vây, cô lập, chưa gia nhập
ASEAN, trong khi đang phải bận tâm với những khó khăn kinh tế - xã hội.
Ngoài
ra, Việt Nam tiến hành đổi mới chưa bao lâu (1986), các nhà đầu tư nước ngoài
có mặt ở Việt Nam còn hạn chế; do vậy, khi xảy ra “tình huống có vấn đề”,
sẽ không đánh động đến nhiều quốc gia. Cuối thập niên 80 (XX), tình hình nội bộ
Trung Quốc đang có vấn đề, diễn ra tranh chấp quyền lực giữa các phe phái,
trong đó phái quân sự và chủ trương làm mạnh ở biển Đông đang thắng thế; do vậy,
ngoài mục tiêu đặt chân lên quần đảo Trường Sa - điều mà Trung Quốc mơ đã từ
lâu, đẩy mạnh hoạt động xâm lấn trên biển Đông, Trung Quốc còn muốn giải quyết
những mâu thuẫn quyền lực trong nước; đồng thời, tuyên cáo “quyền sở hữu” đối với
quần đảo, chứng minh “thực lực” bảo vệ chủ quyền trên biển, mở rộng khu vực hoạt
động của tàu thuyền Hải quân Trung Quốc phủ khắp các đảo đá ngầm Việt Nam.
Trung Quốc cũng đặt mục tiêu "cố tình khiêu khích Việt Nam vào một cuộc
chiến để xua đuổi các nhà đầu tư khỏi Việt Nam và ngăn cản mức tăng trưởng kinh
tế cạnh tranh của Việt Nam"[6]. Lưu ý thêm rằng,
năm 1987 – một năm trước khi Trung Quốc gây ra hải chiến Hoàng Sa, Việt Nam
thông qua Luật đầu tư nước ngoài –bộ luật được các nhà đầu tư trên thế
giới đón nhận và đánh giá là thông thoáng, có sức hấp dẫn. Qua một thời gian thực
hiện, bộ luật đã thu hút được tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư vào một số
ngành và vùng kinh tế, đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ- điều đó
cũng báo trước khả năng chuyển dòng của dòng vốn đầu tư vào Trung Quốc chảy
đến một đất nước Việt Nam đang đổi mới và cởi mở hơn.
2- Câu chuyện giàn khoan
Hải Dương 981
Ngày 1-5-2014, Trung Quốc ngang nhiên đưa giàn khoan Hải
Dương 981 (HD 981) vào hoạt động trong vùng đặc quyền kinh tế, thềm lục địa
của Việt Nam, cách bờ biển Việt Nam khoảng 120 hải lý, cách đảo Lý Sơn 119 hải
lý (221km) và cách phía nam đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của
Việt Nam khoảng 18 hải lý. Trung Quốc liều lĩnh tiến thêm một bước trong việc
hiện thực hóa đường lưỡi bò cũng như chiến lược khai thác dầu khí, ngày càng
coi thường dư luận và luật pháp quốc tế, phô trương sức mạnh trên biển Đông.
Hành động ngang ngược này của Trung Quốc diễn ra không lâu sau chuyến công du đến
châu Á của Tổng thống Mỹ Barack Obama – chuyến thăm có mục đích tái khẳng định
chính sách xoay trục an ninh và nhấn mạnh bảo đảm cam kết với các đồng minh trước
sự hung hăng, lấn lướt của Trung Quốc tại khu vực này; tuy nhiên, trong chuyến
thăm của Tổng thống Mỹ, Việt Nam không phải là điểm đến. Do vậy, Trung Quốc
tính rằng khi Trung Quốc hành động, Mỹ sẽ không có phản ứng quyết liệt.
Xung quanh việc đối đầu Nga – Mỹ ở Ukraine, Nga ra sức
tranh thủ sự ủng hộ của Trung Quốc. Kết quả là trong suốt tiến trình sự kiện,
Trung Quốc có thái độ khá trung dung và đã “tặng” nước Nga một tấm phiếu trắng
trong cuộc họp của Đại hội đồng Bảo an Liên Hợp Quốc thông qua Nghị quyết về
Crimea (15-3-2014). Trong điều kiện Mỹ và các nước phương Tây gia tăng lệnh cấm
vận đối với Nga, việc hợp tác với Trung Quốc sẽ là một cứu cánh quan trọng, còn
Trung Quốc cũng từ đó mà thu nhiều quyền lợi. “Mắc nợ” và còn đang đặt nhiều hy
vọng vào Trung Quốc, chắc chắn, khi Trung Quốc “hành sự” ở biển Đông, nước Nga
sẽ không lên tiếng hoặc nếu có lên tiếng thì cũng ở mức độ cầm chừng.
Quan hệ của Việt Nam với các nước ASEAN – theo như các
tuyên bố, thì khá chặt chẽ; tuy nhiên, thực tế đã chứng minh ngược lại.
Qua những
lần Trung Quốc chèn ép Việt Nam trên biển Đông, thái độ của các nước ASEAN là
thờ ơ và thiếu tương trợ. Các nước ASEAN đã không lên tiếng phản đối trước những
sự kiện Trung Quốc giam cầm ngư dân Việt Nam đánh cá tại khu vực Hoàng Sa, gây
áp lực lên tập đoàn dầu khí Ấn Độ ONGC Videsh để họ rút khỏi Lô 127 và
128, phá hoại thiết bị địa chấn các tàu khảo sát Việt Nam.... Liên kết lỏng
lẻo giữa các nước Đông Nam Á khiến Trung Quốc yên tâm và bình thản với “thẻ
bài” giàn khoan HD 981, biết trước rằng sẽ không có những hành động thực tế mạnh
mẽ từ ASEAN.
Ở thời điểm hiện tại, Việt Nam đang phải đối mặt với nhiều
vấn đề nội tại: Bất đồng chính kiến gia tăng, các cuộc đấu tranh của người dân
mất đất nổ ra ở nhiều nơi, [...] , một bộ phận nhân dân thờ ơ với
chính quyền… Sự thiếu quyết đoán, nhân nhượng có tính hệ thống của chính quyền
trước các tham vọng lãnh thổ, lãnh hải Việt Nam của Trung Quốc trong nhiều năm
qua vô hình trung trở thành yếu tố củng cố thêm quyết tâm hành động của Trung
Quốc.
Trung Quốc trái phép đưa giàn khoan HD 981 vào thềm lục
địa Việt Nam đúng lúc Nhà nước Việt Nam đang rầm rộ kỷ niệm chiến thắng Điện
Biên Phủ - chiến thắng có phần đóng góp của Trung Quốc. Trong dịp này, trên các
báo chí và các diễn đàn chính thống Việt Nam đăng tải không ít những bài báo,
bài phát biểu ca ngợi Trung Quốc, ca ngợi “tình hữu nghị Việt – Trung”. Những chi
tiết tưởng chừng như không lớn đó, song trong chừng mực nhất định, lại có tác dụng
hạn chế phản ứng của Việt Nam. Sau những cái bắt tay hữu hảo, sau những lời ca
tụng, Việt Nam khó mở lời phản đối, phản kháng.
Ngoài việc chọn thời điểm để đạt mục tiêu một cách an toàn
và thuận lợi nhất khi hành động, đưa giàn khoan HD 981 vào vùng biển Việt
Nam, Trung Quốc còn muốn một chuyển tải một vài thông điệp.
Sau khi Tổng thống Barack Obama đặt chân đến Manila, ngày 28-4-2014,
Mỹ và Philippines đã ký kết một Thỏa thuận quân sự (trong 10
năm) cho phép Mỹ tiếp cận với các căn cứ của Philippines, thúc đẩy an ninh khu
vực. Điểm đặc biệt là sau khi ký kết,Thỏa thuận sẽ được Chính phủ
Philippines ban hành với tư cách là một văn kiện hành pháp, cho phép có hiệu lực
ngay, mà không cần phải thông qua thủ tục phê chuẩn tại Quốc hội.
Trong bối cảnh
tranh chấp lãnh hải ở Biển Đông đang hết sức căng thẳng, Thỏa thuận này
là bước quan trọng trong chiến lược “xoay trục” qua châu Á của Washington, biến Philippines
trở thành một trụ cột quan trọng tại Đông Nam Á, tạo điều kiện cho Mỹ tăng cường
sự hiện diện và tham gia vào các vấn đề của an ninh khu vực. Điều đó cũng nói
lên rằng, trong các tranh chấp, đụng độ ở biển Đông, Trung Quốc sẽ không chỉ phải
đối mặt với khả năng bị cô lập lớn hơn, mà còn phải tích toán đến những phản ứng
quyết liệt của các quốc gia tranh chấp khi có Mỹ đứng đằng sau lưng.
Do vậy, “sự
kiện giàn khoan HD 981” còn mang đậm động cơ chính trị, một mặt, nhắn nhủ,
đe dọa các nước có tranh chấp, vướng mắc với Trung Quốc ở biển Đông (đặc biệt là
Philippinesvà Việt Nam) không ngả sang và thắt chặt quan hệ với Mỹ; mặt
khác, thử phản ứng của Barack Obama, thách thức chiến lược xoay trục của Mỹ.
Cần
nói thêm rằng, trong chuyến viếng thăm châu Á của Tổng thống Barack Obama
(23-4-2014) sau cuộc lỗi hẹn tháng 10-2013, liên minh Mỹ - Nhật tiếp tục được củng
cố với những cam kết ủng hộ đất nước "Mặt trời mọc" trong tranh
chấp quần đảo Xen-ca-cư/Điếu Ngư với Trung Quốc trên biển Hoa Đông. Với cam kết
đó, Nhật Bản hoàn toàn có thể định ra và thực hiện những đối sách cứng rắn chống
lại các sức ép từ Trung Quốc đối với vấn đề Xen-ca-cư/Điếu Ngư trong khi đang
có những hành động thực tế hợp tác với Ấn Độ, nhằm “bảo vệ các vùng chung toàn
cầu”, hạn chế “chiến lược cơ bắp” và ngăn chặn, phá vỡ “chuỗi ngọc trai”[7] của Bắc Kinh.
Từ trong lịch sử cho đến hiện tại, Nhật Bản
luôn là “cái gai” trong mắt Trung Quốc, bởi với sức mạnh kinh tế, quân sự và
quan hệ đồng minh với Mỹ, Nhật Bản không chỉ cạnh tranh trực diện với Trung Quốc,
mà bắt đầu có chính sách kiềm chế, hạ thấp ảnh hưởng của Trung Quốc từ xa -
trong khu vực Đông Nam Á và ở châu Phi. Với ngần đó “oán thù” Trung – Nhật, “nắn
gân”, thách thức “kẻ đứng sau” đất nước hoa Anh đào là điều cần thiết lúc này.
Quan hệ Trung - Ấn vốn là mối quan hệ rắc rối, phức tạp,
“cơm chẳng lành, canh chẳng ngọt”, phủ bóng bởi cuộc chiến tranh biên giới
1962. Những thập kỷ gần đây, Trung Quốc - Ấn Độ có một số va chạm trên biển và Ấn
Độ có thái độ cũng như phản ứng khá kiên quyết trước những lấn lướt của Trung
Quốc.
Ấn Độ đẩy mạnh hợp tác với các quốc gia trong khu vực có biên giới biển
và một số đối thủ của Trung Quốc (đặc biệt là một số nước Đông Nam Á và Nhật Bản),
gia tăng sức mạnh, kiềm chế Bắc Kinh. Việc công ty dầu khí Ấn Độ OLV ký kết với
Việt Nam dự án thăm dò dầu khí ở hai lô 127 và 128- nơi mà Trung Quốc cho rằng
“nằm bên trong hải giới truyền thống” của mình, khiến Trung Quốc không chỉ
thấy bất an, mà còn coi đó như một sự thách thức.
Việc khai thác hai lô 127 và
128 là cách thức Ấn Độ can dự gián tiếp vào cuộc tranh cãi trên biển Đông và ngầm
phản đối thái độ bá quyền của Trung Quốc. Nếu Ấn Độ khai thác dầu khí thành
công có nghĩa là Việt Nam có thêm đồng minh trong giải quyết tranh chấp trên biển
Đông và việc khai thác tài nguyên diễn ra êm thấm là một hình thức xác định
cũng như khẳng định chủ quyền trên vùng biển đó. “Con bài” giàn khoan HD 981 của
Trung Quốc chính là một động thái gây áp lực và răn đe Ấn Độ.
Nếu Việt Nam thất
bại trong việc “đuổi” giàn khoan HD 981, chắc chắc Trung Quốc sẽ bước tiếp, sẽ
có những hành động hung hăng hơn để các quốc gia đối tác của Việt Nam, nhất là Ấn
Độ, phải rút khỏi biển Đông, nhường không gian tài nguyên mầu mỡ này cho Trung
Quốc độc chiếm. Lúc đó, Việt Nam đã khó lại còn khó khăn hơn, trở nên yếu thế
và đơn thương độc mã trước những đòi hỏi chủ quyền phi lý của Trung Quốc trên biển
Đông.
Một điều không kém quan trọng là cách thức hành động của Mỹ
trước "cú đòn phủ đầu hung hăng" của Putin ở Crimea càng củng cố ảo vọng
của Trung Quốc tại biển Đông với tính toán tái lập một kịch bản tương tự.
Ngoài
ra, Trung Quốc thừa thông minh để nhận thấy là theo lý thuyết “trung tâm – ngoại
vi”, chiến lược trọng tâm của Mỹ là ở châu Âu – nơi được mệnh danh là “trái táo
bất hòa” giữa hai cường quốc Nga - Mỹ trước đây và cả hiện tại. Mỹ khó lòng
buông lỏng châu Âu, chiến lược “xoay trục” có thể chỉ là một kết nối mang tính
biểu tượng hơn là hiện thực – đó chính là điều cần cho Trung Quốc rảnh tay hành
động.
Tháng 11-2013), Đảng cộng sản Trung Quốc tổ chức Hội nghị
Trung ương lần thứ 3 (khóa XVIII), nỗ lực cải cách theo chiều sâu, nhằm đưa
Trung Quốc bước vào một khởi đầu mới trong quá trình phát triển – quá
trình hoàn thiện và phát triển chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc
Trung Quốc, thực hiện “giấc mơ Trung Hoa”[8] phục hưng
dân tộc.
Về xã hội, để trấn an dư luận, Đảng Cộng sản Trung Quốc nới lỏng
chính sách một con, giảm án tử hình, xóa bỏ chế độ “lao cải”[9],
tăng cường giám sát và kỷ luật trong bộ máy chính trị, năng cao năng lực bộ máy
hành chính công, nghiêm trị tham nhũng…. Tuy nhiên, trong lĩnh vực chính
trị, vẫn chưa nhìn thấy những thay đổi mong đợi, nhằm hiện đại hóa đời
sống chính trị một cách mạnh mẽ; do vậy, Trung Quốc vẫn đang phải đối diện
với một cuộc “khủng hoảng tín nhiệm xã hội”[10].Theo thống kê của
các nhà xã hội học Trung Quốc, mỗi ngày tại đất nước này diễn ra khoảng 500 các
vụ bạo loạn, phản kháng tập thể và đình công, tăng gấp bốn lần so với
một thập kỷ trước.
Dù chính quyền đã buộc phải nhượng bộ một số cuộc phản
đối tập thể - tranh chấp đất đai ở làng Ô Khảm (Quảng Đông), những cuộc đấu tranh
liên quan đến môi trường ở Đại Liên (Liêu Ninh), Thập Phương (Tứ
Xuyên) và Khải Đông (Giang Tô)…song tình hình vẫn tiếp tục nóng lên từng
ngày. Sự kiện Tân Cương, Tây Tạng, những vụ nổ bom, cuộc đấu đá nội bộ với “con
hổ Chu Vĩnh Khang” trước đoạn đầu đài… cho thấy: “Khi bạo lực của chính quyền
không thể chống đỡ được khủng hoảng, những người lãnh đạo thế hệ thứ năm của
Trung Quốc bắt đầu lo lắng cho tương lai của Đảng Cộng sản”[11].
Đề giải quyết những lo lắng đó, khi thay đổi cán cân quyền lực giữa Đảng Cộng sản
và xã hội Trung Quốc đang diễn ra “theo chiều hướng Đảng mất dần sự tín nhiệm
và quyền kiểm soát, còn xã hội thì đang tích thêm sinh lực và sự tự tin”[12], lãnh đạo Trung Quốc hướng sự chú ý trong nước ra bên ngoài,
đánh lạc hướng dư luận, tìm đến “giải pháp biển Đông”, nhằm tạo ra một đợt thủy
triều dâng cao của chủ nghĩa dân tộc được sử dụng như một chất kết dính xã hội.Không
phải ngẫu nhiên mà thời gian gần đây, trên các tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, tạp
chí Nghiên cứu châu Á - Thái Bình Dương, tạp chí Quốc phòng, báo Giải phóng quân,
Nhân dân Nhật báo… của Trung Quốc đăng tải số lượng lớn các bài viết về chủ đề
biển Đông.
Các tít cổ xúy tinh thần dân tộc và kích động được giật theo cách
châm ngòi lửa: "Các quốc gia xung quanh khai thác các nguồn dầu lửa ở
Nam Sa của chúng ta như thế nào?"; “Kẻ nào đang xâm lược các vùng biển của
chúng ta?”; “Trung Quốc không cho phép chà đạp lên chủ quyền lãnh thổ của
mình!”; “Trung Quốc không thể để mất một tấc đất thiêng”....
Nhiều bài báo chĩa
mũi nhọn vào Việt Nam, mô tả Việt Nam như một đối thủ hiếu chiến “đang thèm
khát lãnh hải”, “cố gắng cướp đoạt toàn bộ tài nguyên của Trung Quốc bằng sức mạnh”
(?!).Mới đây, truyền hình Nhà nước Trung Quốc đã phát sóng một bộ
phim tài liệu dài tám tập ca ngợi lực lượng tuần duyên và ngư chính
trong việc bảo vệ “chủ quyền và tài nguyên của Trung Quốc” trên biển
Đông. Cảnh tàu Việt Nam “ngăn cản” tàu thăm dò của Trung Quốc một
cách “điên cuồng” đã gây một ấn tượng mạnh.
Bộ phim cũng tung hô lòng dũng cảm
của Hải quân Trung Quốc khi mô tả “sự đối đầu không nao núng” và cuộc chiến đấu
oanh liệt với đội tàu có vũ trang lớn hơn gấp nhiều lần của Việt Nam.
Bằng cách đó,Trung Quốc xoay chủ nghĩa dân tộc về phía biển Đông (chủ quyền đối
với Trường Sa) như là một phương thức để tái khẳng định vị thế và hàn gắn rạn nứt
xã hội. Rất có thể, giàn khoan HD 981 là khởi đầu của cao trào đó.
3- Rút tỉa từ quá khứ và
hiện tại
Qua khảo cứu, phân tích những vụ việc điển hình xảy ra
trong quá trình Trung Quốc thực hiện chiến lược xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của
Việt Nam, có thể nhận thấy rằng, đó là chiến lược nhất quán, ăn sâu vào máu thịt,
não trạng của những thế hệ lãnh đạo Trung Quốc. Nó giống như một căn bệnh mãn
tính mang tên “bành trướng”, “bá quyền” âm ỉ trong một cơ thể Trung Quốc nhìn bề
ngoài thì tưởng như cường tráng, khỏe mạnh, song thực chất bên trong lại đang
chứa chất đầy những vi rút nguy hiểm.
Chiến lược ấy của Trung Quốc được tính
toán cẩn trọng, kỹ lưỡng, nhằm nuốt dần đất đai, sông biển Việt Nam. Chiến lược
ấy cũng còn nhằm bào mòn sức mạnh, hút dần dinh dưỡng, làm cho Việt Nam rối loạn,
yếu dần và chia rẽ. Một dân tộc chia rẽ là một dân tộc yếu – đó đã là nguyên lý.
Yếu đến hèn chỉ còn một bước ngắn. Khi đã hèn thì sẽ bị hòa tan.
Có lịch sử lâu đời 5.000 năm, tự hào là trung tâm văn minh
Đông Á không ai sánh kịp, song điều kinh khủng là ở chỗ, những nhà lãnh đạo
Trung Quốc lại đem niềm tự hào ấy nuôi giấc mộng khôi phục “địa vị ưu việt” bằng
những phương thức cực đoan và quá khích, để xóa đi cái quá khứ với “thế kỷ
nhục nhã” của một Trung Quốc bạc nhược, tổn thương, u tối.
Lịch sử đã vô tình và khắc nghiệt đặt dải đất hình chữ S
bên cạnh một người láng giềng phương Bắc to lớn và đầy tham vọng. Láng giềng
không thể chọn lựa, Trung Quốc luôn tồn tại ở đó, bất trắc, khó lường. “Sự kiện
giàn khoan HD 981” là câu trả lời đầy đủ nhất, trung thực nhất về “phương châm
16 chữ vàng”, “tinh thần bốn tốt” và áp lực “Hán hóa” – một câu chuyện có thật,
thường trực và chưa có hồi kết thúc.
Hiện diện ở biển Đông bằng vũ lực, trong “cơn mê lú quyền lực”,
Trung Quốc đang bước tới sai lầm khó gỡ, đang hủy hoại lòng tin, uy tín quốc tế
và sự tôn trọng của các quốc gia xung quanh. Hành xử hung hăng theo kiểu côn đồ
trên biển Đông, Trung Quốc không khiến các đối thủ của mình sợ hãi, trái lại, cảnh
báo về một quốc gia đầy hiểm họa, ưa thích ức hiếp, tôn sùng các nguyên tắc ứng
xử thời trung cổ, viết nên luật lệ của riêng mình trong một thế giới, khi mọi
quốc gia đang nỗ lực đi về phía văn minh.
Trung Quốc đang chơi một trò chơi nguy hiểm, đang biến “giấc
mơ Trung Hoa” thành “cơn ác mộng Trung Hoa”. Có thể, nếu các quốc gia liên quan
không có những hành động quyết liệt, không gom tụ lại, Trung Quốc sẽ thắng thế.
Nhưng dù có thắng thế, dù có trỗi dậy, dù “giấc mơ Trung Hoa” có sớm thành hiện
thực, song trong mắt nhân loại, trong mắt “người tử tế”, Trung Quốc mãi mãi -
chẳng bao giờ với tới văn minh
[1]Marvin
Kalb- Barnard Karbl: Đột phá khẩu Trung Quốc, Hội nghị cấp cao 1972, Tập 2,
Viện Thông tin Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1979, tr. 67.
[2]Sđd,
tr. 68.
[3]Trong
kế hoạch 1976 - 1980, bình quân một năm tổng sản phẩm xã hội chỉ tăng 1,4 %, thu
nhập quốc dân tăng 0,4 % (kế hoạch là 13-14%). Kết thúc kế hoạch 5 năm (1980),
tất cả 15 chỉ tiêu chủ yếu đều không đạt, thậm chí một số sản phẩm công nghiệp
và nông nghiệp quan trọng bình quân đầu người không giữ được mức của năm 1976.
Hiệu quả của nền kinh tế rất thấp, tốc độ tăng không tương xứng với mức đầu tư
xây dựng cơ bản; giá trị tài sản cố định tăng chỉ bằng 46,8 % tổng mức đầu tư
xây dựng cơ bản; hiệu quả hoạt động của hệ thống cơ sở vật chất thấp, chỉ huy động
được trên dưới 50 % công suất.
[4]Năm
1980, Nhà nước phải nhập 1,576 triệu tấn lương thực. Ngân sách thiếu hụt lớn, giá
cả tăng hàng năm 20%, nhập khẩu nhiều gấp 4-5 lần xuất khẩu.
[5]Quần
đảo Trường Sa: Liệu có còn thích hợp khi tranh cãi về vấn đề chủ quyền, Viện
nghiên cứu khoa học pháp lý quốc tế, Bản dịch, Lưu tại Thư viện Quân đội, tr.5.
[6]Valencia.M.J,
Vandyke.J.M, Ludwig.N.A: Chia sẻ tài nguyên ở biển Nam Trung Hoa, Bản dịch,
Lưu tại Thư viện Ban Biên giới Chính phủ, tr.70.
[7]Thuật
ngữ “chuỗi ngọc trai” là tên một kế hoạch triển khai an ninh hàng hải - quân sự
của Trung Quốc xuất hiện lần đầu tiên trong báo cáo mật mang tên “Tương lai của
năng lượng châu Á” được Mỹ đưa ra vào năm 2005. “Chuỗi ngọc trai” chỉ các căn cứ
quân sự, cảng biển của Trung Quốc nằm rải rác như những hạt ngọc trai, chạy
theo tuyến đường hàng hải trên biển bắt đầu từ đảo Hải Nam qua biển Đông, qua
eo biển Malacca, sang Ấn Độ Dương… đến tận châu Phi (Somali) và vùng vịnh
Persian, đặc biệt là các nước dọc vùng biển Ấn Độ Dương như Pakistan, Sri
Lanka, Sudan…. giúp Trung Quốc bành trướng trên mọi hướng biển.
[8]Ngày
8-4-213, nội hàm “giấc mơ Trung Hoa” được Tập Cận Bình giải thích rõ trong phát
biểu khai mạc Diễn đàn châu Á Bác Ngao (BFA) như sau: Vào giữa thế kỷ
XXI, Trung Quốc sẽ trở thành một quốc gia xã hội chủ nghĩa hiện đại, thịnh vượng,
hùng mạnh, dân chủ, văn hóa tiên tiến, hòa hợp và giấc mơ Trung Hoa, cụ thể là
sự phục hưng vĩ đại dân tộc Trung Hoa sẽ thành hiện thực.
[9]Hệ thống
trại cải tạo lao động ra đời từ năm 1957 để giam giữ những người phạm các tội
danh không nghiêm trọng như trộm cắp, gây rối trật tự, mại dâm, sử dụng ma túy,
giam giữ những người bất đồng chính kiến. Hệ thống này này tồn tại nhiều điều bất
hợp lý nguy hiểm như chính quyền địa phương và công an có quyền ra lệnh giam giữ
mà không cần ra tòa xét xử. Tuy nhiên, người ta cũng cho rằng,giới lãnh đạo
Trung Quốc vẫn có thể tiếp tục sử dụng hệ thống lao cải với tên gọi khác, hoặc
thậm chí không cần đặt tên cho hệ thống này.
[10]“Khủng
hoảng tín nhiệm xã hội” có nghĩa là “chính quyền của dân” không nhận được
sự tín nhiệm của người dân, trên thực tế người dân không còn coi chính quyền là
người đại diện cho mình. Nói cách khác, đối với một bộ phận quần chúng nhân
dân, chính quyền không còn đồng hành với họ, không thể hiện được ý chí của họ.
Một cuộc khủng hoảng tín nhiệm xã hội sẽ gây ra sự nhiễu loạn về tư tưởng, gây
mất niềm tin của dân chúng vào hệ tư tưởng hiện hành của xã hội.
[11]Minxin
Pei: China’s Troubled Bourbons, Project Syndicate, 31-10-2012.
[12]Ibid.
No comments:
Post a Comment